LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Các tác giả văn 6": http://123doc.vn/document/568776-cac-tac-gia-van-6.htm
ở Thái Bình, Thanh Hóa lại về làm đội phó phụ trách tòa án ở Hải Dương
Nay, cụ chọn căn buồng làm việc yên tĩnh, khi đóng cửa thì kín bưng như cái lô cốt, nhưng chỉ cần đẩy nhẹ cánh
cửa sổ phía sau: bên ngoài đã là một con phố nhỏ, bên kia đường có cái quán nước, có mấy công nhân xây dựng
lấm láp vôi vữa đang tranh luận sôi nổi Đúng là cụ vẫn đặt bàn viết giữa cuộc đời như Vương Trí Nhàn đã viết
Vân Long
Đoàn Giỏi
“Có mảnh đất sinh ra những nhà văn, và ngược lại, có nhà văn từ trang viết đã biến miền quê riêng
của mình thành miền quê chung thân thuộc trong tâm tưởng bao người "
TIỂU SỬ
Đoàn Giỏi sinh ngày 17.5.1925 tại Tân Hiệp - Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Ông xuất thân từ một gia đình
địa chủ lớn, có hàng trăm mẫu ruộng màu mỡ ven sông Tiền. Nhà ông xưa toà ngang dãy dọc, nơi mà bây
giờ trở thành trụ sở Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành. Tất cả nhà và đất gia đình ông đã tự nguyện
hiến cho kháng chiến ngay từ đầu. Sau ngày thống nhất đất nước, nhà văn Đoàn Giỏi ra vào Nam – Bắc
như cánh chim trời. Ở Hà Nội thì ông ở trụ sở Hội Nhà văn, vào Mỹ Tho thì ở cơ quan Hội Văn Nghệ, còn
ở Sài Gòn ông tá túc tại nhà một người bạn trên đường Võ Văn Tần. Cho đến khi qua đời ở tuổi 65 (1989),
ông vẫn chưa có một mái nhà riêng. Đoàn Giỏi là con đẻ và là kết tinh của nền văn hoá phương Nam, ông
đã hiến trọn của cải vật chất và tinh thần của mình cho những người dân phương Nam khẳng khái khai
phá, sáng tạo!
Để có được một miền đất phương Nam trù phú với những cánh đồng thẳng cánh cò bay, những cánh chim
tung trời, tiếng vó ngựa reo vui trên đường làng, tiếng mái chèo trên sông nước… chúng ta không thể quên
được công lao to lớn của ông cha ta hơn 300 năm về trước xuôi thuyền vô phương Nam đi mở đất – qua
bao cuộc bể dâu, qua bao cuộc đổi thay, qua bao gian khổ hy sinh với một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống, yêu quê hương mãnh liệt. Không biết tự bao giờ những câu hò, điệu lý đã đi sâu và in đậm trong
từng tấc đất, từng con người và từng mái nhà, từng rặng cây… để hôm nay chúng ta được kế thừa một tài
sản âm nhạc vô giá mang đậm dấu ấn của miền sông nước, cái nôi của các ngón đờn tài tử cải lương.
Nhà văn Đoàn Giỏi và gia đình
Chúng ta gặp nhà văn Đoàn Giỏi ở rất nhiều nơi: trong trang sách giáo khoa, trong ngôi nhà dấu yêu nhỏ
bé. Nụ cười của ông vẫn còn tươi nguyên bên bàn thờ còn nghi ngút khói hương. Chúng ta còn gặp ông
bên cạnh các bạn văn một thời trong những tấm ảnh đã ngả màu, và cuối cùng là ở nghĩa trang nơi duy
nhất mà ông không còn phải bận rộn với những tác phẩm văn học. Dù bất cứ ở đâu, ông cũng được đồng
nghiệp, bạn bè, độc giả thương mến. Và ai từng tiếp xúc với ông đều có chung cảm giác: Nhớ nhà văn
Đoàn Giỏi.
Nhà văn biến miền quê riêng thành miền quê chung
Bìa sách “Đất rừng phương Nam”
Trong tập tiểu luận - phê bình “Tiếng vọng những mùa qua” của Nguyễn Thị Thanh Xuân (NXB Trẻ, 2004)
nhận định về tác giả Đất rừng phương Nam: “Có mảnh đất sinh ra những nhà văn, và ngược lại, có nhà
văn từ trang viết đã biến miền quê riêng của mình thành miền quê chung thân thuộc trong tâm tưởng bao
người Với Đoàn Giỏi, tôi nghĩ rằng ông đã đón nhận được cái hạnh phúc đó Ông đã đem đến cho bạn
đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất mà trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung
của mọi người Ông đã xây dựng những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa "
(Đoàn Giỏi, đất và rừng phương Nam).
TS Phạm Văn Tình trong bài “Mái đình - nét đẹp trong hồn quê Việt Nam” viết: "Nhà văn Đoàn Giỏi, trong
bài tùy bút “Măng tầm vông” đã có những dòng thật cảm động, mô tả tâm trạng của người con miền Nam
tập kết ra Bắc, ngồi trên thuyền nhìn lại xóm làng của mình lần cuối: “Tôi đứng mãi trên boong, chờ đợi
phút qua ngang nhà. Làng tôi, xanh ngắt những tàu dừa, tàu chuối. Mái đình cháy hơn một nửa, nhô ra
giữa rặng cây. Bờ tầm vông thấp thoáng, ngọn tầm vông hoe vàng trong ánh nắng một chiều thu".
“Mái đình cháy hơn một nửa" - vết tích của chiến tranh tàn phá, như một nỗi đau gieo giữa lòng nhà văn,
một người con sắp tạm rời xa xứ sở. Đấy là nỗi đau đau đáu của dân tộc bao nhiêu năm. Đó là một mảnh
hồn quê, làm nên một nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ lâu đã in vào tâm khảm mỗi con người và toả
sáng trong những áng thơ văn.
Đoàn Giỏi
Tiểu sử
Đoàn Giỏi sinh ở quê tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành,
tỉnh Tiền Giang), trong một gia đình địa chủ. Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định
trong những năm 1939-1940. Khi Cách mạng tháng Tám thành công và toàn quốc kháng chiến
bùng nổ, gia đình ông đã tự nguyện hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính quyền Việt Minh.
Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công
tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá (1949). Từ năm 1949 đến
năm 1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn
nghệ Miền Nam.
Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, công
tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội
Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn Giỏi còn
có các bút danh khác: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.
Ngoài truyện, truyện ngắn, ký, Đoàn Giỏi còn sáng tác thơ. Đất rừng phương Nam là truyện viết
cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ông. Truyện đã được dịch ra nhiều tiếng
nước ngoài, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và in trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản
Kim Đồng.
Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư. Ngày 7 tháng 4
năm 2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đặt tên ông cho một phố thuộc
Quận Tân Phú.
Thành tựu nghệ thuật
Đoàn Giỏi là nhà văn đã biến đất rừng phương Nam trở thành thân thuộc, đáng yêu đối với độc
giả, không chỉ là độc giả nhỏ tuổi. Những trang văn của ông thấm đượm hơi thở của sông nước,
rừng cây, những câu chuyện cả thực cả kỳ bí của thiên nhiên Nam bộ hoang sơ và truyền được hơi
thở ấy cho độc giả. Có được điều đó không những là nhờ tình yêu của ông đối với miền đất Nam
bộ quê hương mà còn ở óc quan sát tỷ mỷ, tinh tế, lối văn kể chuyện hấp dẫn trong tác phẩm của
mình.
Ngoài lề
Gia đình Đoàn Giỏi đã hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính phủ và, trụ sở của Uỷ ban nhân
dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang hiện nay chính là nhà của gia đình ông. Sau khi Việt nam
thống nhất năm 1975 Đoàn Giỏi đi lại rất nhiều giữa hai miền Nam, Bắc nhưng không có nhà
riêng, khi ở Hà Nội ông thường ở Hội nhà văn Việt Nam và khi vào Nam ở nhờ nhà bạn bè.
Trong giới văn học có kể về giai thoại Đoàn Giỏi viết "Đất rừng phương Nam". Tháng 2 năm
1957, Đoàn Giỏi nhận được đặt hàng của Hội văn nghệ Việt Nam viết một tác phẩm về thiếu nhi
Nam Bộ, thời gian viết trong 4 tháng. Tuy nhiên, mãi đến tháng 5, khi nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng nhắc lại yêu cầu này và nhấn mạnh thời điểm ra đời của Nhà xuất bản Kim Đồng, Đoàn
Giỏi mới bắt đầu chấp bút. Chỉ trong một tháng, ông đã kịp hoàn tất tác phẩm đúng thời gian dự
kiến. Tác phẩm được xuất bản ngay thời điểm ra đời của Nhà xuất bản Kim Đồng và đã thành
công vượt mức mong đợi. "Đất rừng phương Nam" được tái bản rất nhiều lần và được dịch và
xuất bản ở Liên Xô, Hungari, Trung Quốc, Đức, Cuba
Tương truyền, các nhà văn Nam Bộ tập kết, cùng cư trú tại nhà số 19 Tôn Đản, Hà Nội đã có câu
đối giễu Đoàn Giỏi: "Ở Trung Quốc, có ông Tào Ngu mà giỏi; Ở Việt Nam có ông Đoàn Giỏi mà
ngu" Tuy nhiên, đây chỉ là câu đối vui, không hàm ý chỉ trích mà ngầm so sánh Đoàn Giỏi có vị
trí tương tự như nhà viết kịch Trung Quốc Tào Ngu.
TẠ DUY ANH
Tiểu sử:
Tên thật: Tạ Viết Dũng.
Sinh năm: 1959
Nơi sinh: Chương Mỹ - Hà Tây.
Bút danh: Tạ Duy Anh, Lão Tạ, Bình Tâm.
Thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết.
Các tác phẩm:
• Bước qua lời nguyền (1990)
• Khúc dạo đầu (1991)
• Đi tìm nhân vật
• Lão Khổ (1992)
• Hiệp sĩ áo cỏ
• Thiên thần sám hối
• Luân hồi (1994)
• Bến thời gian
Nhà văn Tạ Duy Anh: “Cách dạy văn đang lạc hậu bậc nhất thế giới”
(TT&VH) - Ban đầu khi nghe chúng tôi “alô” xin được hỏi chuyện về văn chương nhà trường cũng
như tác phẩm Bức tranh của em gái tôi, nhà văn Tạ Duy Anh “viện cớ” đã, đang “ở ẩn” nên không
muốn nói gì thêm về văn chương, đặc biệt là văn chương trong nhà trường. Nhưng rồi, đề tài giáo
dục như hoặc đã chạm vào nỗi niềm của một con người tâm huyết, trách nhiệm với thế hệ tương
lại của đất nước nên ông lại “lai rai với chúng tôi về những vấn đề ấy không biết chán!
Đang biến trẻ con thành những ông già!
Nhà văn Tạ Duy Anh tâm sự: “Sau khi viết khá nhiều cho trẻ con thì tôi nhận thấy một điều, ấy là thế giới
trẻ con phức tạp vô cùng, nhưng cũng vô cùng công minh (hơn thế giới người lớn rất nhiều). Nó phán xét
tất cả mọi thứ bằng trực quan nhạy cảm của nó, mà dường như trực quan ấy mất dần khi chúng thành
người lớn. Một đứa trẻ chỉ vài tháng tuổi có thể hớn hở với người này nhưng lại khóc thét lên với người
khác. Đó như là sự nhạy cảm trời đất ban tặng. Vì vậy, không thể yêu giả vờ với trẻ. Nó sẽ phản ứng rất
chuẩn xác thậm chí làm cho chúng ta phát ngượng”.
Khi được hỏi về chất lượng của nền giáo dục nước mình hiện nay, ông thẳng thắn nói: “Khô cứng, áp đặt,
dù SGK hiện nay đã khắc phục được một vài nhược điểm, đang có xu hướng cho trẻ con tiếp cận với
những giá trị mang tính nhân bản hơn và đã tiến gần hơn tới cái bản chất giáo dục - giáo dục về lòng thiện
cho con người - đặt cơ sở để từ đó làm nảy sinh những tình cảm tốt đẹp hơn.
Chúng ta cũng nên biết và nên nhớ rằng tâm hồn đứa trẻ là nơi mọi thứ có thể sinh ra thì giáo dục ban đầu
phải làm sao hạn chế tối đa sự nảy ra “những cái cây có hại”, mà cần tạo ra những cây đẹp, khu vườn
đẹp. Bạn sẽ rất buồn nếu như thấy một đứa trẻ bước ra khỏi lớp học với một bộ mặt buồn rầu, mệt mỏi,
già nua.
Tôi không nói giáo dục nước mình làm hại đến trẻ mà chỉ thấy rằng nền giáo dục hiện nay đang biến trẻ
con thành những ông già sớm và những ông già khó tính, mất đi tính hồn nhiên và sớm nghi ngờ tương lai,
thay thế giới mơ mộng thần tiên của trẻ bằng thế giới trần trụi mà nổi bật lên là những hành động vụ lợi
của người lớn. Khi trong cặp của trẻ bao gồm cả bảng cửu chương, những kiến thức lịch sử hào hùng của
dân tộc, lẫn những tờ đơn viết sền sẵn của cô giáo để dạy thêm và tiền bạc…thì làm sao không khiến
chúng trở nên nghi kỵ thế giới chung quanh, chống lại những điều đó bằng việc khẳng định mình và điều
đó rất nguy hiểm. Nếu cứ như vậy mãi thì người ta sẽ không còn tin vào nền giáo dục quốc gia mà sẽ rút
lui về giáo dục gia đình ”
Bắt hàng triệu học sinh hiểu như nhau về một tác phẩm
Nhà văn Tạ Duy Anh cho rằng cách dạy văn của Việt Nam xứng đáng xếp vào nhóm nước lạc hậu nhất
thế giới, bắt hàng triệu người hiểu như nhau về một tác phẩm. Hãy nghe ông giải thích: “Ngay cả triệu viên
gạch cùng được làm ra từ một khuôn cũng khác nhau huống chi một triệu con người… Một đứa trẻ ở nông
thôn đọc Chí Phèo chắc chắn sẽ có những cảm nhận khác với một đứa trẻ ở thành phố. Làm sao giống
nhau được! Vậy mà một tác phẩm văn chương bắt người ta hiểu giống nhau bằng cách ra những đáp án.
Đó là một sự xúc phạm với tác giả nói riêng và sáng tạo nói chung! Một triệu người đọc phải là một triệu
cảm nhận khác nhau bên cạnh những giá trị chung. Mà những giá trị chung ấy là phần rất nhỏ thôi, đôi khi
có những ý nghĩ rất tinh vi mà có thể thay đổi được cả cuộc đời.
Nhà văn Tạ Duy Anh qua nét hí họa của họa sĩ
Khoái
Một điểm nữa là, giáo dục của chúng ta lại khích lệ những đứa trẻ
học thuộc lòng. Đó chưa phải là phương pháp hay, tốt mà cần
khích lệ học sinh khám phá, khuyến khích tính độc lập, sáng tạo
của trẻ.
Tôi cho rằng, hiện có quá nhiều thứ hấp dẫn đáp ứng sự lười biếng nhưng trẻ vẫn là đối tượng chăm đọc
nhất. Nhưng đọc cái gì thì cần bàn lại. Hồi còn đi học tôi rất thích bài thơ “Chào lớp 1”, thích cái nhịp của
nó như nhịp tâm hồn, dù ý của bài thơ khá mộc mạc, đơn giản nhưng nó đi đúng vào nhịp tâm hồn, tình
cảm và khao khát của tâm hòn trẻ thơ (Lớp một ơi lớp một/ Đón em vào năm trước/ Nay giờ phút chia tay/
Gửi lời chào tiến bước…). Mà tôi tin sẽ có rất nhiều người nhớ những bài thơ như thế. Văn học trong nhà
trường, nhất là ở bậc Tiểu học cũng nên chọn những bài như thế in vào SGK”.
Trước khi tiễn chúng tôi ra về, nhà văn Tạ Duy anh “chốt” lại ý kiến của mình về việc tuyển chọn các tác
phẩm văn học vào SGK: “Văn chương không thiếu tác phẩm hay để đưa vào SGK. Bao giờ dám đưa
những tác phẩm, chẳng hạn một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, tác phẩm của Bảo Ninh hoặc như
“Bước qua lời nguyền”(*) vào SGK dạy một cách đàng hoàng. Tôi không tự “đề cử” cho tác phẩm của
mình hay tự đề cao mình, nhưng đúng là có những tác phẩm rất hay, đáng in vào SGK đã, đang bị bỏ
quên”.
(*)“Bước qua lời nguyền” – tên một truyện ngắn của nhà văn Tạ Duy Anh.
Yên Khương (ghi)
Võ Quảng
Tiểu sử
Tên khai sinh: Võ Quảng, sinh ngày 1.3.1920. Quê ở Đại Hòa huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Hiện nghỉ hưu ở Hà Nội. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Trình độ Đại học. Hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam (1965).
* Võ Quảng tham gia cách mạng từ năm 1935, chính thức gia nhập tổ chức Thanh niên Dân chủ ở
Huế. năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941 bị Pháp bắt giam ở
nhà lao Thừa Phủ. Sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở xã Đại Hòa. Năm 1945 làm ủy viên
Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Sau đó làm Phó Chủ tịch UB Kháng chiến hành chính Đà Nẵng.
Năm 1947 làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) tòa án quân sự miền Nam Việt Nam. Từ
1948 đến 1955 làm ủy viên Ban Thiếu niên Nhi đồng Trung ương, đồng thời lần lượt phụ trách
Nhà xuất bản Kim Đồng và xưởng phim hoạt hình. Năm 1971 về Hội Nhà văn Việt Nam, phụ
trách Văn học thiếu nhi.
* Tác phẩm đã xuất bản:
Cái Thăng (truyện, 1961);
Chỗ cây đa làng (1964);
Cái Mai (1967);
Những chiếc áo ấm (truyện, 1970);
Quê nội, Tảng sáng (truyện, 1973);
Bài học tốt (truyện, 1975);
Vượn hú (truyện, 1993);
kinh tuyến vĩ tuyến (truyện, 1995);
Gà mái hoa (thơ, 1957);
“Một nhà sư phạm thực sự thì phải
biết cách truyền được đam mê, khao
khát cho trẻ. Trước đây tôi từng được
học cô giáo như thế. Về mặt kiến
thức, có thể sau này tôi nhận ra ở cô
quá nhiều khiếm khuyết nhưng quan
trọng là cô đã tạo dựng được lòng tin
trong lòng chúng tôi. Những khi máy
bay trên trời bay vù vù mà có cô giáo
ở cùng ở dưới hầm thì cảm giác rõ
ràng là sẽ không có bất cứ điều gì
xảy ra vì có cô bên cạnh. Cô như một
“tấm chắn vĩ đại”, một vị thần hộ
mệnh không bom đạn nào có thể
vượt qua để chạm được vào chúng
tôi. Đó là sức mạnh của niềm tin”
(tâm sự của nhà văn Tạ Duy Anh).
Thấy cái hoa nở (thơ, 1962);
Nắng sớm (thơ, 1965);
Anh Đom đóm (thơ, 1970);
Măng tre (thơ, 1972);
Quả đỏ (thơ, 1980);
ánh nắng sớm (thơ, 1993);
Sơn tinh thủy tinh,
Con 2 (kịch bản phim hoạt hình).
Ngoài ra còn một số biên soạn viết bằng tiếng Pháp.
Khi giới thiệu quyển truyện “Quê nội” của Võ Quảng người ta bảo tôi: Đây là một loại Tôm Xoyơ
của Việt Nam. Đã từ lâu tôi rất thích tác phẩm Tôm Xoyơ. Nhưng sau khi làm quen với tác phẩm
của Võ Quảng tôi cảm thấy mình còn thích các nhân vật Cục và Cù Lao hơn.
Võ Quảng đã đặt câu chuyện xảy ra tại chính quê hương mình, ấy là làng Hoà Phước, tỉnh Quảng
Nam, một tỉnh nằm giữa nước Việt Nam. Ở đây các sự kiện nhỏ đặt liền nhau, khăng khít nhau tạo
nên câu chuyện. Câu chuyện bắt đầu sau Cách mạng tháng Tám, sau ngày lễ tuyên bố độc lập của
nước Việt Nam năm 1945, một thời kì mà mãi đến nay vẫn còn để lại dấu tích trong nền văn học
Việt Nam.
Tác phẩm phản ánh tâm trạng phấn khởi có phần hơi ngây thơ của dân làng, lòng tin tưởng kì diệu
của họ vào tương lai đất nước. Tôi đã có dịp hỏi vài người từng sống trong thời kì ấy, khi họ còn
trẻ. Ở họ đều còn đọng lại một niềm thương nhớ thắm thiết.
Bạn đọc người Pháp có thể tìm thấy gì qua các hình tượng ở đây? Có thể ở một số người sau bốn
mươi năm, những nỗi đau xót nảy sinh từ cuộc chiến tranh ở Đông Dương chưa xoá hết được.
Trong truyện, người Pháp hiện diện như kẻ áp bức, như những kẻ thù. Tác giả không nhào nặn lại
lịch sử, nhưng ở đây trong mọi thể hiện đều có mức độ. Có một tí gì mỉa mai nhẹ nhàng và thân ái
trong khi tác giả nhắc lại bài diễn thuyết có phần khoa trương của một cán bộ cơ sở. Nhưng chúng
ta không thể nào nhầm, vì đây không phải là những lời trống rỗng. Chú Năm Mùi không hề thủ
đoạn, không đầu cơ chính trị. Chú đấu tranh cho cách mạng, chú hiểu rõ bà con trong làng xóm
của mình. Những lời nói của chú không phải là những câu châm ngôn sách vở, chú cũng không
phải là kẻ khoe khoang. Trái lại, trong nhiều trường hợp chú tỏ ra biết nhiều kinh nghiệm, có
những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống và con người. Ngoài ra chú không phải không biết hóm hỉnh.
Ở Việt Nam, Võ Quảng được công nhận là một trong những nhà văn ưu tú viết cho thiếu nhi. Mặc
dù sự khan hiếm về giấy đã hạn chế gay gắt số lượng bản in, tác phẩm của Võ Quảng được tái bản
nhiều lần và nhanh chóng được tiêu thụ.
Trước kia trong thời kì thực dân Pháp đô hộ, ông hoạt động cách mạng chống Pháp. Năm 1941
ông bị thực dân Pháp bắt giam. Sau Cách mạng tháng Tám, ông phụ trách chính quyền Đà Nẵng,
phụ trách việc xét xử ở các toà án miền Trung. Từ năm 1957, ông chăm lo công việc giáo dục
thiếu nhi bằng các phương tiện văn học nghệ thuật.
Sự đồng cảm về ngôn ngữ có phần hạn chế nhưng bản dịch ít nhiều cũng gợi lên được phong cảnh,
những công việc làm ăn hàng ngày ở một vùng quê Việt Nam. Chúng ta hi vọng tài năng của tác
giả trong việc sáng tạo những hình tượng văn học, trong việc tạo ra sự sống động của các nhân vật.
Không phải không được cảm nhận ở đây. Làm sao người ta có thể quên được quang cảnh những
ngọn đèn trôi dọc bờ rào của những người đi học lớp xoá nạn mù chữ trong đêm tối, quên được
những con gà trống ở Hoà Phước, con trâu Bỉnh bước giữa ngàn sao, quên bà Hiến… Chúng ta hi
vọng tính chất kín đáo rất mực tinh vi của những tình cảm bộc lộ trong câu văn được truyền qua
bạn đọc. Chú Hai Quân bị lí trưởng đánh đòn buộc phải bỏ làng ra đi. Trước khi đi chú sửa lại tao
nôi của đứa bé gái con chú. Những lời từ biệt của Cục và Cù lao được thể hiện qua tiếng hát của
các cô lái đò xuôi Hội An. Lần chia tay thứ hai trái lại là một sự rứt ra đột ngột vào lúc bến đò Hoà
Phước nhốn nháo giữa chiến tranh. Và câu chuyện của Cục và Cù Lao cũng kết thúc ở đấy.
Các độc giả phương Tây có lẽ sẽ ngạc nhiên trước bao nhiêu khía cạnh dân tộc của người Việt
Nam. Chẳng hạn sự say mê xem hát tuồng của dân làng và vai trò quan trọng của sân khấu trong
đời sống của họ, cảnh chạy trốn chiến tranh hay chạy trốn đói nghèo kéo dài suốt lịch sử đất nước
Việt Nam qua bao thế kỉ đã từng tạo nguồn cảm hứng cho bao nhiêu bài hát dân gian.
Về phần tôi, tôi mong muốn trước hết được Cục và Cù Lao đưa lại cho chúng ta một sự hiểu biết
nhiều hơn về một nước Việt Nam hầu như còn xa lạ đối với người Pháp.
1987
Võ Quảng - những điều kì lạ thú vị
Nhà văn trẻ Phong Điệp đã rất có lý khi nói rằng “cuộc đời ông (nhà thơ nhà văn Võ Quảng) là một cuộc đời
kỳ lạ đầy thú vị .” Từ ý kiến này, và cũng nhân ngày sinh nhật ông 1/3, chúng tôi xin thử nêu một vài điều thú
vị và kỳ lạ trong cuộc đời cũng như trong văn chương ông. Điều thú vị đầu tiên là Võ Quảng gần như không
làm thơ tình mà bạn đọc vẫn thích, ông là nghịch lý thú vị so với Xuân Diệu vốn được coi là ông hoàng tình
trên thi đàn Việt Nam.
Sinh thời, Xuân Diệu nói với Võ Quảng “Chúng mình cùng đi đến nơi về đến chốn”. Thơ vốn có cả vạn ngả đường,
nhưng đều hướng về “chốn” Chân Thiện Mỹ và cả Võ Quảng cũng như Xuân Diệu đều là những tài thơ luôn tươi trẻ.
Trong khi các nhà thơ khác lấy việc làm thơ cho người lớn là chính và thỉnh thoảng mới viết cho thiếu nhi như Huy
Cận có “Đôi bàn tay em”, Tú Mỡ có thơ ông cháu… Thì Võ Quảng lại dành phần lớn tâm huyết, tài năng và trái tim
cho thơ văn thiếu nhi và chỉ thỉnh thoảng ông mới viết cho người lớn. Đó cũng là sự lạ độc đáo khác đời lắm nơi ông.
Thơ và tuổi thơ vốn là hai khái niệm gần nhau, tuổi thơ là giai đoạn đẹp và nên thơ nhất của đời người. Thật thú vị
khi Võ Quảng dâng hiến cả đời cho tuổi thơ và Thơ. Cuộc đời ông vì vậy cũng đẹp như một bài thơ. Võ Quảng
thường sáng tác vào tinh mơ, khi trẻ còn đang ngủ với bao giấc mơ đẹp thì người thơ Võ Quảng đã dậy để biến mơ
ước làm được thơ hay cho thiếu nhi thành hiện thực. Làm thơ cho thiếu nhi cũng là giấc mơ thú vị và kỳ lạ trong đời
ông.
Võ Quảng coi việc làm thơ cho trẻ là công việc giản dị. Một việc bé nhỏ thôi nhưng cần thiết, làm thơ cho con trẻ là
định vị cái đẹp thơ ca trong hồn trẻ, tạo nên tình yêu cái đẹp nơi con trẻ, góp phần hoàn thiện tâm hồn cho các em,
giúp các em lớn lên và hoàn thiện chính mình. Cái lạ ở đây là việc này được ông coi là nhỏ, nhưng sức nặng và tầm
quan trọng của nó lại không hề nhỏ. Đó cũng là cái thuật để ông có thể làm được việc lớn, việc khó. Cái thuật đó
nằm ở cách nhìn biết hoá giải cái lớn, cái khó, cái phức tạp thành cái đơn giản, khả thi, đồng thời biết luôn coi trọng
ý nghĩa của cái cái nhỏ trong nghệ thuật. Mọi cái lớn đều bắt đầu từ những cái nhỏ. Khởi đầu của nhà thơ lớn là một
trẻ thơ. Các tác phẩm văn chương lớn đều được hình thành từ những con chữ bé nhỏ. Những bản giao hưởng lớn
đều vang lên từ những nốt nhạc xinh xinh. Những kiệt tác hội họa được hình thành tư vô vàn những vệt, những
chấm màu nho nhỏ. Đó là điều kỳ lạ thú vị trong cách nhìn và ứng xử khiêm nhường của ông.
Cuộc đời Võ Quảng cũng là một cuộc đời không hề bình thường và đơn giản. Ông sinh ra trong một giai đoạn lịch sử
Việt Nam đầy sóng gió, nó buộc ông phải sớm gắn bó với hoạt động Cách mạng. Đặc biệt trong đời mình Võ Quảng
đã làm hai cuộc phiêu lưu. Cuộc phiêu lưu đầu tiên là bỏ con đường lãnh đạo đang hanh thông để chuyển sang làm
văn học vì ông yêu văn học. Cuộc phiêu lưu thứ hai là gác việc sáng tác cho người lớn cũng đang đầy hứa hẹn để
chuyển sang viết cho thiếu nhi vì tình yêu con trẻ và cũng vì nhận ra sự thiếu vắng của văn học thiếu nhi, đặc biệt là
thơ thiếu nhi trong văn học Việt Nam. Hai cuộc phiêu lưu đều là vì tình yêu thơ văn và trẻ thơ, nó kỳ lạ không kém gì
chuyện phiêu lưu mạo hiểm của phương Tây, nhưng lại cũng phảng phất bóng dáng của triết cổ phương Đông ở chỗ
đó là tình yêu hỉ xả vị kỷ rất gần với triết lý của đạo Phật. Về ông nhà thơ Vũ Ngọc Bình viết “ Võ Quảng lành như
Phật/Khoẻ đôi tay văn thơ/”Măng tre” và “Quê nội”/Như thật mà như mơ”. Từ truyện ngắn đầu tay của mình là “Cái lỗ
cửa”, Võ Quảng đã rất thành công và được dịch sang tiếng Pháp, trong thơ người lớn ông cũng có không ít những
câu hay như “Tôi đi/Từ lúc tập ném con khăng ở sân đình/Cho đến lúac mài kiếm bạch đầu quân/Giữa lòng mẹ
hiền/Giữa những bàn tay mở ra như chớp chớp” (Tôi đi), nhưng thơ và văn cho tuổi thơ mới là khu vực mà ông
chuyên tâm sáng tạo nhất, tại đây ông có nhiều những câu thơ hay, những bài thơ hay, những trang văn hay, những
truyện và tiểu thuyết hay. Người duy mỹ và kỹ tính bậc nhất trong văn chương Vịệt Nam là nhà văn Nguyễn Tuân
viết: “Võ Quảng bắt đầu nói chuyện với độc giả bằng tập thơ “Măng tre”, thơ măng là những bài thơ đẹp như tranh
tĩnh vật. Tranh vẽ những hình dáng tĩnh nhưng lại sống động, và Võ Quảng đã thổi vào đấy cái tâm hồn trong trắng
của mình”. Còn Nguyễn Huy Tưởng sau khi đọc truyện “Cái thăng” in lần đầu trên “Văn nghệ” vào năm 1956 thì từ
đấy đã nể trọng tài văn trẻ Võ Quảng kém ông tám tuổi.
Đến nay, khi Việt Nam vào WTO với công cuộc mở cửa và hội nhập thế giới, thì kỳ lạ thay trước đó vào những năm
70 của thế kỷ trước, Võ Quảng đã có bài thơ “Mời vào” như tiếng gõ cửa đánh động về vấn đề này thông qua các
nhân vật đồng thoại. Thật lạ từ lúc đó người thơ đã nghe được tiếng gõ cửa của tưởng lai, của một thời đại mở cửa
hội nhập tất yếu sẽ đến với dân tộc Việt Nam. “Mời vào” là bài thơ dược trẻ em yêu thích và nổi tiếng nhất của Võ
Quảng “-Côc, cốc, cốc!/-Ai gọi đó?/-Tôi là thỏ/-Nếu là Thỏ/Cho xem tai. / -Cốc, cốc, cốc! /-Ai gọi đó?/-Tôi là Nai/-Nếu
là Nai/Cho xem gạc. / -Côc, cốc, cốc!/-Ai gọi đó?/-Tôi là Vạc/-Nếu là Vạc/Cho xem chân / “-Côc, cốc, cốc!/-Ai gọi
đó?/Tôi là Gió/-Nếu là Gió/Xin mời vào!/Kiễng chân cao/Trèo qua cửa/Cùng soạn sửa/Đón trăng lên/Quạt mát
thêm/Hơi biển cả/Reo hoa lá/Đẩy buồm thuyền…/Đi khắp miền/Làm việc tốt!” Bài thơ vui, sinh động ngộ nghĩnh, nó
đã được các nhạc sĩ phổ nhạc, được trẻ dựng thành hoạt cảnh, thành trò chơi hàng ngày. Với trẻ ở lửa tuổi nhỏ đó
là bài học nhận diện, phát hiện đặc thù của mỗi con vật, mỗi hiện tượng trong cuộc sống. Với các em ở tuổi lớn hơn
đó là bài học về tình bạn, nhu cầu muôn thuở của con trẻ. Còn với người lớn tiếng gõ cửa cốc cốc cốc là biểu tượng
cho sự quảng giao tình bè bạn, của giao lưu cộng đồng, đó là tiếng của thời đại thế giới hội nhập mà Võ Quảng đã
sớm cảm nhận và thể hiện trong thi phẩm của mình. Còn với các nghệ sĩ, bài thơ lại mang hàm nghĩa khác, nó là
khát vọng gõ cửa lâu đài nghệ thuật và cái quan trọng nhất là mỗi người bước vào đó phải có được một phong cách
nghệ thuật riêng độc đáo… Đó cũng là điều thú vị hữu ích với các bạn văn thơ trẻ. Chỉ qua tiếng gõ cửa giản dị đó,
thật kỳ lạ ta chợt nhận ra biết bao ý nghĩa khác nhau, bất tận như cuộc sống luôn không ngừng biến đổi vậy. Võ
Quảng đã đi trước thời đại, 10 năm sau khi bài thơ ra đời đất nước bước vào đối mới, hơn30 năm sau đất nước mở
cửa hội nhập. Thi phẩm “Mời vào” kỳ lạ như bài đồng dao mang tính tiên tri trong một thời đại đầy biến động. Cái
điều kỳ lạ đó thường xảy ra khi người nghệ sĩ biết nhìn bằng cái tâm trong sáng và trái tim yêu thương của mình.
Tại Hội thơ 2009. lần đầu tiên thơ thiếu nhi góp mặt với chương trình “Thơ với thiếu nhi” tạo nên sự viên mãn và
tương lai mới cho thơ ca Việt Nam. Tại đây thơ Võ Quảng được các các em đọc, các em hát và các em vẽ lên. Trẻ
em hát và múa theo bài hát được phổ nhạc từ bài thơ “Mời vào” của ông, dưới sự lãnh đạo của họa sĩ Nguyễn Việt
Hoà lớp học mang tên Lớp vẽ Cốc! Cốc! Cốc! được thành lập và đã đem những bức tranh trẻ em vẽ trưng bày tại
Hội thơ này như một họat động trong khuôn khổ ngày thơ. Và thơ Võ Quảng thật hay khi nó là cái hồn cho tác phẩm
của các họa sĩ nhí và tiếng thơ của Võ Quảng đã ngân lên những giai điệu kỳ lạ bằng đường nét và màu sắc thật
hồn nhiên tươi mới. Đó cũng là một tiếng thơ thật kỳ lạ và thú vị của Võ Quảng góp mặt tại Ngày thơ Việt Nam năm
2009. Võ Quảng đến với văn học ở tuổi 35 và với văn học thiếu nhi ông là tác giả vạn sự khởi đầu nan, là tác giả văn
học thiếu nhi chuyên nghiệp dầu tiên của Việt Nam, người chuyên tâm viết cho thiếu nhi, dành cả đời viết cho thiếu
nhi, viết hay và thành công ở cả thơ lẫn văn, ông viết cho thiếu nhi với tính chuyên nghiệp cao, có văn phong độc
đáo Hình như trời đất trao gửi cho ông cái sứ mệnh xây dựng nên văn học thiếu nhi Việt Nam, Khi đã cao tuổi ông
vẫn chuyên cần viết cho thiếu nhi và vẫn nhận được nhiều thư bạn đọc trẻ gửi tới.
Cũng thật thú vị khi ngay trong lĩnh vực lý luận phê bình văn học thiếu nhi Võ Quảng cũng là người đầu tiên góp
phần hình thành các quan niệm cơ bản đặc trưng cho văn học thiếu nhi Việt Nam như là chất trong sáng, tươi vui,
hóm hỉnh, tính giáo dục, sự phù hợp theo đối tượng lứa tuổi… Ông có nhiều bài viết hay và chuyên sâu về việc làm
thơ viết văn cho thiếu nhi, cũng như nhiều bài viết động viên khích lệ các tác giả trẻ viết cho thiếu nhi. Đó là những
đóng góp bước đầu định hình một nền văn học thiếu nhi Việt Nam thực sự chuyên nghiệp. Có một điều cũng rất thú
vị là Võ Quảng còn là người đầu tiên, dưới cái tên Hoàng Huy, dịch kiệt tác Đông Kisốt (Đôn Kihôtê) của Xecvantet
sang tiếng Việt cho các em từ năm 1959. Đó là bản dịch phóng tác hợp với thiếu nhi mà vẫn giữ được cái hồn và
tiếng cười của nhà văn Tây Ban Nha thiên tài này. Thật thú vị là người thơ Võ Quảng hiền lành ít nói, thậm chí sinh
thời ông còn tự coi mình là “chậm. chạp, chậm. tiến”, nhưng ông đã lặng lẽ làm được rất nhiều việc cho văn học
thiếu nhi và qua đó đóng góp cũng thật nhiều cho văn học Việt Nam.
Một lần nữa xin nhắc lại phát hiện thú vị của nhà văn trẻ Phong Điệp “cuộc đời ông (nhà thơ nhà văn Võ Quảng) là
một cuộc đời kỳ lạ đầy thú vị” quả là rất đúng và các bạn văn trẻ, thơ trẻ, đặc biệt là các nhà lý luận phê bình trẻ sẽ
còn mãi tìm được nơi ông biết bao điều thú vị khác nữa. Và trong thực tế hôm nay rõ ràng là đã hình thành một cõi
thơ văn thiếu nhi sau ông, đó là nhu cầu của thời đại, đó là cả một không gian xiết bao rộng lớn và đầy triển vọng
đang chờ đợi những cây bút trẻ tiếp nối.
(Sương Mai)
Nhà thơ Minh Huệ.
Sáng ngày 11/10, căn bệnh nặng đã đưa nhà thơ Minh Huệ, tác giả của bài thơ nổi
tiếng Đêm nay Bác không ngủ về cõi vĩnh hằng. Nhà thơ Minh Huệ là người luôn sống mẫu mực,
thẳng thắn và rất nguyên tắc.
Trong bài phát biểu của ông Lê Thái Sơn - Chủ tịch Hội Văn nghệ Nghệ An trên đài truyền hình Nghệ An,
khi nói lời vĩnh biệt nhà thơ Minh Huệ tối 11/10, có câu: "Nhà thơ Minh Huệ là một người mẫu mực". Tiếp
đó là hình ảnh nhà thơ trên giường bệnh. Quanh ông là lãnh đạo Hội và anh chị em văn nghệ sĩ đang đọc
thơ cho ông nghe. Ông không nói nên lời. Ông đưa bàn tay xanh xao khẽ chùi nước mắt. Đó là hình ảnh
cuối cùng về nhà thơ Minh Huệ được ghi lại.
Nhà thơ Minh Huệ, tên khai sinh là Nguyễn Đức Thái. Ông sinh ngày 3/10/1927, quê gốc Bến Thủy, thành
phố Vinh. Nơi ở hiện nay: phường Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tốt nghiệp đại học Văn. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957)
Minh Huệ tham gia Việt Minh (5/1945) và cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ An (8/1945). Hoạt
động tuyên truyền, văn nghệ tuyên huấn, báo chí ở Nghệ An, khu ủy khu Bốn và một số nơi. Hội trưởng
Hội sáng tác Văn nghệ liên khu IV. Trưởng Ban thơ, lý luận, phê bình; Văn học dịch Nhà xuất bản văn học.
Ủy viên Ủy ban hành chính kiêm Trưởng ty Văn hóa Nghệ An. Chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh. Ủy viên
Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1984-1991).
Tác phẩm đã xuất bản: Tiếng hát quê hương (thơ, 1959); Đất chiến hào, (thơ, 1970); Mùa xanh đến (thơ,
1972); Đêm nay Bác không ngủ (thơ, 1985); Rừng xưa rừng nay (bút ký, 1962); Ngọn cờ Bến Thủy (truyện
ký, 1974-1979); Người mẹ và mùa xuân (truyện ký, 1981); Phút bi kịch cuối cùng (tiểu thuyết, 1990);
Thưởng thức thơ viết về Bác Hồ (tiểu luận, 1992).
Các bút danh: Mai Quốc Minh, Nguyễn Thái.
Giải thưởng văn học: Giải nhất Chi hội văn nghệ kháng chiến khu Bốn và Sở Thông tin tuyên truyền khu
Bốn 1954 (thơ Dòng máu Việt Hoa). Giải thưởng Nguyễn Du của Nghệ Tĩnh 1986 (tập thơ Đêm nay Bác
không ngủ).
(Theo Việt Báo)
Tố Hữu
Tiểu sử
Tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng
Việt Nam. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam như ủy
viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ
nhất Hội đồng bộ trưởng Việt Nam.
Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920, tại xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ,
thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà
nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ cùng quê hương Huế đã góp phần
nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học (Huế). Tại đây,
được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin,
Maxim Gorky qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt
Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với
lý tưởng cộng sản. Ông gia nhập Đoàn thanh niên và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1938.
Năm 1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ,
tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ
máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
• 1948 : Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
• 1963 : Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
• Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;
• Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
• Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành
Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;
• Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
• 1981 : Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng
cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt
1).
Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban
Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung
ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.
Sau khi Lê Duẩn mất, có sự thay đổi mạnh mẽ tiến tới đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế toàn diện. Ông bị mất uy tín vì vai trò "nhà thơ đi làm kinh tế" qua những vụ khủng hoảng tiền
tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm mọi chức vụ, chỉ còn làm một chức nghiên cứu hình thức.
Ông mất 9h15' ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.
Đóng góp văn học
Các tác phẩm
• Từ ấy (1946)
• Việt Bắc (1954)
• Gió lộng (1961)
• Ra trận (1962-1971)
• Máu và Hoa (1977)
• Một tiếng đờn (1992)
• Ta với ta (1999)
• Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
• Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
Một số bài thơ tiêu biểu:
• Bác ơi
• Bài ca xuân 1961
• Bài ca quê hương
• Bầm ơi!
• Có thể nào yên?
• Đi đi em!
• Đời đời nhớ Ông
• Đợi anh về (tập thơ dịch,
1998)
• Em ơi Ba Lan
• Gặp anh Hồ Giáo
• Hai đứa trẻ
• Hồ Chí Minh
• Hãy nhớ lấy lời tôi
• Hoa tím
• Hoan hô chiến sĩ Điện
Biên
• Kính gửi cụ Nguyễn Du
• Khi con tu hú
• Lạ chưa
• Lượm
• Mẹ Suốt
• Mồ côi
• Một tiếng đờn
• Mưa rơi
• Sáng tháng Năm
• Ta đi tới
• Từ ấy
• Tâm tư trong tù
• Tương tri
• Theo chân Bác
• Tiếng chổi tre
• Tiếng hát sông
Hương
• Tiếng ru
• Vườn nhà
• Việt Bắc (thơ, 1954)
• Việt Nam máu và
hoa
• Xuân đang ở đâu
• Xuân đấy
Giải thưởng
• Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc)
• Giải thưởng văn học ASEAN (1996)
• Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật (đợt 1, 1996)
Phong cách nghệ thuật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét