LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại nhntvn": http://123doc.vn/document/1051032-cac-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-huy-dong-von-tai-nhntvn.htm
của các doanh nghiệp, họ không chỉ trông chờ vào nguồn vốn tự có mà phải dựa vào
nhiều nguồn vốn khác nhau trong xã hội. Ngân hàng thương mại với chức năng
trung gian tín dụng sẽ là nơi tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi để bổ sung cho đầu tư
phát triển. Như vậy tín dụng ngân hàng vừa giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn
được thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp
phần thúc đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại sử dụng tài lực của người này đem đến cho người khác sử
dụng theo phương thức “vay để cho vay”, đó chính là vai trò trung gian của ngân
hàng. Như vậy, xuất hiện một nét đặc thù chính của ngân hàng khi đóng vai trò
trung gian đó là: thu thập những đồng tiền đã có sẵn(nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm,
…) và đem cho vay đối với người cần có tiền để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh, sinh hoạt và đời sống. Vai trò trung gian này ngày càng trở nên phổ biến hơn
nhờ vào việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và hiện nay
phổ biến là tiền gửi tiết kiệm có sổ số.,… cũng được coi như là một hình thức thu
thập nguồn vốn.
Ngày nay, quan niệm về vai trò của trung gian tín dụng ngày càng trở nên đa dạng
hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của
chức năng này. Ngân hàng có thể đứng ra làm trung gian giữa công ty( khi phát
hành cổ phiếu) với các nhà đầu tư: chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng
khoán, đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty …, theo cách này, ngân hàng
không chỉ làm trung gian giữa người gửi tiền và người vay tiền mà còn làm trung
gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường. Những trung gian tài
chính làm việc này để kiếm lời bằng cách cho vay với lãi suất cao hơn số lãi mà họ
phải trả cho người cho vay.Như vậy, do hoạt động trong quá trình tài chính gián
tiếp, những trung gian tài chính có thể làm lợi cho phần lớn những người có khoản
tiết kiệm nhỏ có thể có được khoản lãi lớn và những người vay các món tiền nhỏ
nay có thể vay được các khoản tiền lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra, đối với những
người vay các món vay lớn cũng được hưởng lợi bởi vì quá trình trung gian tài
chính sẽ tập trung được nhiều vốn hơn trong thị trường tài chính.
Tác dụng của trung gian tài chính là giảm thiểu những chi phí thông tin và phí giao
dịch trong nền kinh tế. Vì các trung gian tài chính là người kết nối các thông tin cần
thiết giữa người thừa vốn với người thiếu vốn, lựa chọn những đối tượng tin cậy để
cho vay, đảm bảo nguồn vốn huy động không bị thất thoát do sự sai lệch thông tin
hoặc thông tin không đầy đủ.
Những trung gian tài chính là một nguồn tài chính quan trọng hơn rất nhiều so với
thị trường chứng khoán. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng còn là một trong những
nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp.Vì vậy tín dụng
ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động
viên vật tư hàng hoá đưa vào sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến
bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.
Ngày nay, thông qua chức năng trung gian tín dụng, các ngân hàng thương mại đã
và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng
lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống của nhân dân.
* Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán.
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng thanh toán hộ của các ngân
hàng cổ xưa. Ngày nay, các khách hàng chỉ việc thực hiện quá trình gửi tiền của
mình vào ngân hàng bằng cách mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng, và
mọi khoản thanh toán của khách hàng sẽ được ngân hàng đảm bảo thực hiện đầy đủ.
Trong các ngân hàng cổ, chức năng trung gian thanh toán tách rời hoàn toàn khỏi
chức năng trung gian tín dụng, nhưng ngày nay hai chức năng này có sự gắn bó chặt
chẽ và hữu cơ với nhau, các ngân hàng thương mại sử dụng khoản tiền gửi của
người này đem cho người kia vay. Khi các ngân hàng thương mại thực hiện chức
năng này thì các khách hàng giảm thiểu đi một lượng chi phí rất lớn dành cho việc
vận chuyển, bảo quản tiền.
Cho đến thập niên 70 – 80 các ngân hàng thương mại mới chiếm được địa bàn rõ rệt
trong việc cạnh tranh về tiền gửi thanh toán. Không một định chế tài chính nào có
thể cung cấp một công cụ với khả năng không hạn chế cho việc thanh toán cho các
bên thứ ba theo yêu cầu.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo ra các công cụ lưu
thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó(séc, giấy chuyển ngân, thẻ
thanh toán…). Từ các phương tiện thanh toán trên, các khách hàng chỉ cần ra lệnh
và thông qua đó các ngân hàng sẽ thực hiện các nghiệp vụ thanh toán một cách
chính xác và nhanh chóng. Đồng thời thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ trên
dã tạo cơ sở cho việc thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Ngày nay, việc làm trung gian thanh toán đã phát triển ở một tầm cao mới cùng với
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Các ngân hàng thương mại đang tiến dần tới việc
hoàn toàn thực hiện các nghiệp vụ thanh toán bù trừ, tiền phi vật chất được chuyển
từ tài khoản của người này sang tài khoản của người khác, nó chính là đồng tiền ghi
sổ, góp phần thích ứng với các nhu cầu của giao dịch. Cùng với sự phát triển của
đồng tiền ghi sổ, tiền tệ nói chung đã trở thành một công cụ mềm dẻo, nó không cần
tồn tại dưới dạng vật chất, séc và chuyển khoản chỉ là cách thực hiện, nó cho phép
lưu thông đồng tiền ghi sổ. Cơ sở của việc dùng séc hay chuyển khoản chính là tài
khoản tại ngân hàng.
1.1.1.2.Một số nghiệp vụ của NHTM
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp.Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài
chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại được chia làm 2 loại hình khác
nhau:
- Hoạt động nghiệp vụ(kinh doanh tiền tệ): Chữ nghiệp vụ có nghĩa là nghề nghiệp,
nghề thể hiện bản chất của ngân hàng(nghề buôn tiền, kinh doanh tiền tệ) mà thiếu
nó thì ngân hàng không còn là ngân hàng nữa. Những hoạt động để tìm kiếm nguồn
vốn hoặc cung ứng cho khách hàng gọi chung là hoạt động kinh doanh tiền tệ giữa
một bên là khách hàng với một bên là ngân hàng. Đây là đặc trưng cơ bản của
nghiệp vụ ngân hàng.
- Hoạt động dịch vụ: Đây là hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải
quyết mối quan hệ giữa khách hàng hoặc tài sản mà khách hàng sở hữu với người
cung cấp mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu.
Hoạt động của ngân hàng mang tính cạnh tranh cao độ, với mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận nên các ngân hàng ngày nay đã và đang đưa ra rất nhiều các dịch vụ mới
nhằm tối đa hoá lợi ích cho các khách hàng. Để thu hút được các khách hàng đến
với mình trong khi có quá nhiều sự lựa chọn như hiện nay là một vấn đề khó khăn
đối với các ngân hàng thương mại.
Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau để
hình thành nên các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế, khi ngân hàng thương
mại đi vào hoạt động ổn định, các nghiệp vụ được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá
trình hoạt động, tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
a. Mua bán ngoại tệ
Một trong những nghiệp vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán)
ngoại tệ.Một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và
hưởng phí dịch vụ.Trong thị trường tài chính hiện nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ
do các ngân hàng lớn thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro
cao, đồng thời yêu cầu phải có năng lực chuyên môn cao.
b.Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để
huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh
toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản
hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.
Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã
trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu
cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
Có thể nói, ngân hàng là nơi kinh doanh đồng vốn. Ngân hàng vừa là nơi cung cấp
đồng vốn, vừa là nơi tiêu thụ đồng vốn. Ngày nay, các ngân hàng thương mại không
đơn thuần chỉ là trung gian giữa người thừa vốn và người thiếu vốn mà cùng với
sự phát triển không ngừng của nền kinh tế các ngân hàng đã thực hiện nhiều nghiệp
vụ khác nhau nhằm thu hút được tối đa nguồn tiền gửi.
Các khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau. Thứ nhất họ
có thể mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để hưởng lợi ích từ các phương tiện mà
ngân hàng có thể cung cấp cho họ. Họ có thể được hưởng các dịch vụ thanh toán
trong tương lai hoặc giúp giải quyết những vấn đề của họ trong quá khứ mà không
phải trực tiếp tự mình tiến hành các hoạt động đó. Thứ hai, khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng để lấy lãi suất như các sổ tiền gửi hay các tài khoản định kỳ.
Các khoản tiền gửi cung cấp một nguồn chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng thương mại, tuy nhiên nó được chia thành hai phần như sau: tiền gửi của
các doanh nghiệp và tiền gửi của dân cư.
Các doanh nghiệp thông qua việc mở tài khoản để được ngân hàng cung ứng các
dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ một cách nhanh chóng và an toàn. Những nghiệp
vụ này nếu khách hàng tự đứng ra đảm trách sẽ mất rất nhiều công sức và thời gian.
Về phía ngân hàng, thông qua nghiệp vụ này cũng thu hút được một lượng lớn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và một khoản lệ phí nhất định.
Đối với khách hàng trong dân cư, việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, ngoài
việc được đáp ứng tất cả các dịch vụ thanh toán khi phát sinh, khách hàng còn được
cung ứng một loạt các dịch vụ đa dạng về tài chính có khả năng sinh lời.
Về phương diện pháp lý, người gửi tiền có quyền lựa chọn các loại hình gửi tiền
theo yêu cầu, được hưởng các dịch vụ ngân quỹ do ngân hàng cung ứng hoặc được
hưởng lãi suất, bù lại ngân hàng được tuỳ nghi sử dụng số tiền mà khách hàng đã
gửi phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với cam kết hoàn trả vào bất
kỳ thời điểm nào mà khách hàng yêu cầu(đối với tiền gửi không kỳ hạn) hoặc vào
thời điểm đáo hạn đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn
c.Cho vay
- Cho vay thương mại
Ngay từ thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho
vay đối với những người bán(người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng
để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho
vay trực tiếp đối với các khách hàng(là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự
trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng đều không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bởi vì họ cho rằng các khoản cho vay này có mức rủi ro vỡ nợ
cao.
Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc
các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng.
- Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở
nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các
ngành công nghệ cao. Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao
song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay đầu tư vào đất.
d.Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng
trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận(giấy
chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy
chứng nhận nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán
các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc
sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó
là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi
tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
e.Cung cấp các tài khoản giao dịch và và thực hiện thanh toán.
Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo
quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân
hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không
cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách(còn được
gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền
Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt(an toàn, nhanh chóng, chính xác,
tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập
cho các doanh nhân. Khi ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được
mở rộng phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến
khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ.
Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi
giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và
dịch vụ. Việc đưa ra loại tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi
quan trọng nhất trong ngành công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi,
nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ….
f.Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá
nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do
có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân
hàng đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý
quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng
dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi
khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
g. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng
tâm chú ý của các Chính phủ.Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong
khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay
của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư dùng một số đặc quyền trao đổi
lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng trung ương thành lập,
Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín
dụng lớn.
Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng.
Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực
hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các
ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng
tiền gửi mà ngân hàng huy động được hoặc
1.1.1.3.Vai trò của các NHTM đối với nền kinh tế
a. Chu chuyển và cung cấp vốn cho nền kinh tế
-Vốn được hình thành từ quá trình tích tụ tập trung, từ việc tích luỹ, tiết kiệm của
mỗi cá nhân, doanh nghiệp và cả Nhà nước trong nền kinh tế. Để có nhiều vốn thì
nhất thiết phải tăng thu nhập quốc dân và giảm chi tiêu nhằm tạo ra một khoản tích
luỹ đủ lớn để tiếp tục đầu tư tái mở rộng sản xuất. Mặt khác, để tăng thu nhập quốc
dân tức là phải mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh hàng hoá, đẩy mạnh sự phát
triển của các ngành trong nền kinh tế, điều này đồng nghĩa với việc cần phải có vốn,
ngược lại, khi tất cả các ngành hay nền kinh tế phát triển sẽ lại tạo ra nhiều nguồn
vốn.
Ngân hàng thương mại là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra thu gom tất cả các nguồn vốn nhàn
rỗi trong nền kinh tế từ các cá nhân, tổ chức như: vốn tạm thời được giả phóng ra từ
quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của dân cư, các nguồn vốn được sử dụng
chuyên cho vay lấy lãi… tạo nên một khoản vốn đủ lớn cung cấp cho mọi hoạt động
kinh tế và đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất. Như vậy, nhờ có
hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại mà các doanh nghiệp có điều kiện
mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ từng bước tăng năng suất lao động,
nâng cao hiệu quả kinh tế và quan trọng hơn cả là đáp ứng tốt nhu cầu, thị hiếu của
khách hàng.
b. NHTM là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại với tư cách là trung tâm tiền tệ
của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển hài hoà cho tất cả các thành phần
kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự thay đổi của
ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều tới các thành phần kinh tế khác.Do vay, sự
hoạt động có hiệu quả của các ngân hàng thương mại thông qua các nghiệp vụ kinh
doanh của nó thực sự là công cụ tốt để nhà nước tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
Thông qua hoạt động tín dụng thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống, ngân
hàng thương mại đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu
thông.Mặt khác, với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay vốn, ngân hàng
thương mại đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của
thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, đảm bảo cung cấp đầy đủ kịp
thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai trò điều tiết gián
tiếp vĩ mô nền kinh tế
c.NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính thế giới
Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cùng với việc hình
thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu mậu dịch tự do, làm cho các mối quan
hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng, nhu cầu về giao lưu kinh tế xã hội
giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết.
Hơn nữa, việc phát triển kinh tế của mỗi nước lại luôn gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Do vậy, để
đảm bảo cho sự phát triển hài hoà thì nền tài chính của mỗi nước cũng phải hoà
chung với nền tài chính quốc tế.
NHTM cùng với các hoạt động kinh doanh của mình đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong sự hoà chung đó. Với các nghiệp vụ kinh doanh tiền gửi, cho vay, bảo
lãnh… và đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế, ngân hàng đã tạo điều kiện thúc
đẩy hoạt động ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển. Mặt khác,
cũng với các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế của mình, các ngân hàng thương mại
trong nước đã thiết lập được mối quan hệ làm ăn chặt chẽ với các ngân hàng thương
mại nước ngoài, từ đó điều tiết nền tài chính trong nước phù họp với sự vận động
của nền tài chính quốc tế.
Như vậy, trong điều kiện ngày nay, sự phát triển kinh tế của mỗi nước luôn gắn liền
với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, phá vỡ sự tồn tại của nền kinh tế
“đóng”, nhường chỗ cho nền kinh tế “mở”. Đối với các nước đang phát triển nói
chung và Việt Nam nói riêng, ngân hàng thương mại đã và đang chiếm giữ vai trò
quan trọng trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trở thành một bộ phận không
thể thiếu thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông qua các khoản tín dụng, ngân hàng
đã đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, phục
vụ đúng hướng cho sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Có thể nói,
ngân hàng thương mại không chỉ là “bà đỡ” cho nền kinh tế mà còn là “cái bơm”
luôn điều hoà vốn tới mọi thành phần trong nền kinh tế.
1.1.2.Vốn trong ngân hàng thương mại
1.1.2.1.Phân loại các nguồn vốn
a. Vốn chủ sở hữu
- Vốn điều lệ là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của ngân hàng thương mại.
Tuỳ theo hình thức sở hữu mà vốn điều lệ của ngân hàng thương mại được hình
thành từ các nguồn khác nhau, có thể do nhà nước cấp, do các cổ đông góp vốn hay
do các bên liên doanh đóng góp.
Vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu
nhưng nó không được ít hơn vốn pháp định mà pháp luật quy định. Trong quá trình
hoạt động, các ngân hàng thương mại có thể tăng vốn pháp định nếu được sự cho
phép của ngân hàng trung ương.
- Các quỹ dự trữ: Để đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình,
các ngân hàng thương mại được phép trích lập các quỹ dự trữ: Quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ phát triển nghiệp vụ….
- Các tài sản nợ khác: Vốn đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản do nhà nước cấp,
các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá, lợi nhuận được để
lại để phân bổ cho các quỹ…
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ nguồn vốn hoạt động của
các ngân hàng thương mại nhưng nó có một vị trí rất quan trọng. Ngoài việc nó là
cơ sở pháp lý để thành lập các ngân hàng và làm căn cứ để tính toán các tỷ lệ an
toàn của kinh doanh ngân hàng, chỉ tiêu này còn là một nhân tố rất căn bản để đánh
giá năng lực tài chính, mức độ chịu đựng rủi ro, điều kiện để tiếp cận với các dự án
đầu tư của các tổ chức tín dụng quốc tế của các ngân hàng thương mại trong điều
kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét