Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Di cư trong nước - Cơ hội và thách thức


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Di cư trong nước - Cơ hội và thách thức": http://123doc.vn/document/538341-di-cu-trong-nuoc-co-hoi-va-thach-thuc.htm


Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
5
UNAIDS Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS
UNDP Chương trình phát triển Liên hợp quốc
UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc
UNICEF Quỹ Nhi Đồng Liên hợp quốc
UNIFEM Quỹ phát triển Phụ nữ Liên hợp quốc
VAPPD Hiệp hội Phát triển Dân số của Quốc hội Việt Nam
VDG Mục tiêu phát triển của Việt Nam
VHLSS Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam
VLSS Điều tra mức sống dân cư Việt Nam
VMS Điều tra di cư Việt Nam
Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
6
Giống như nhiều quốc gia khác khi trải qua
quá trình phát triển kinh tế xã hội nhanh
chóng, trong vòng 20 năm trở lại đây Việt
Nam đã chứng kiến sự tăng theo cấp số nhân
của dòng người di cư trong nước và quốc tế.
Càng ngày người ta càng nhận thấy rằng quá
trình phát triển và di cư luôn đi đôi với nhau. Di
cư vừa là động lực thúc đẩy lại vừa là kết quả
của sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc
gia. Ở Việt nam quá trình phát triển kinh tế xã
hội từ thời kỳ Đổi Mới vào năm 1986 chính là
chất xúc tác cho dòng di cư trong nước gia
tăng, người dân được tự do di chuyển khỏi
nơi ở của mình, và sự khác biệt về điều kiện
sống giữa các vùng ngày càng gia tăng cũng
là động lực khiến người dân di cư. Di cư trong
nước đã góp phần vào sự phát triển kinh tế
xã hội thông qua việc di chuyển của người lao
động nhằm đáp ứng nhu cầu lao động trong
các khu công nghiệp và trong các khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài đồng thời thông
qua đó đã đóng góp vào phát triển kinh tế gia
đình của số lượng lớn các gia đình có người
di cư.
Để có thể hiểu tường tận về vai trò của di cư
trong nước đối với sự phát triển kinh tế xã
hội của Việt Nam, trước hết cần lưu tâm tới
các khung pháp lý, thể chế chính sách và quy
định hành chính trong vấn đề di cư trong nước
của Việt Nam. Trước hết, phải nói đến Hiến
pháp Việt Nam có quy định một số quyền cho
người dân di cư (và cho tất cả mọi công dân
Việt Nam) và rất nhiều các văn bản quốc tế
về nhân quyền mà Việt Nam đã cam kết. Điều
đáng tiếc là các chính sách của Chính phủ
chưa chú trọng một cách đầy đủ tới việc đảm
bảo các quyền của người di cư trong nước ở
Việt Nam. Điều này phần nào được phản ánh
trong các văn bản luật pháp và chính sách
của Chính phủ và các Bộ ngành. Cho đến nay
chưa có bộ ngành nào được giao trách nhiệm
cụ thể trong việc bảo vệ nhóm công dân này,
chính vì thế những mối quan tâm của người di
cư thường chưa được thể hiện đầy đủ trong
các chính sách quốc gia. Một chính sách cụ
thể không thuận lợi cho cho người di cư trong
nước và chưa đảm bảo được các quyền của
họ chính là vấn đề hộ khẩu hay cụ thể là hệ
thống đăng ký hộ khẩu được phân loại theo
các dạng cư trú khác nhau của người dân tạo
ra những yêu cầu khác nhau khi họ tiếp cận
tới các dịch vụ xã hội.
Tổng quan về di cư trong nước vì lý
do kinh tế ở Việt Nam
Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009 cho thấy trong giai đoạn 2004-2009
có 6,6 triệu người di cư giữa trong và ngoài
tỉnh của Việt Nam. Con số này thể hiện sự
gia tăng đáng kể so với 4,5 triệu người di cư
trong nước ghi nhận từ cuộc tổng điều tra dân
số năm 1999. Các số liệu thống kê cũng cho
thấy đa số người di cư là thanh niên, trong đó
nữ di cư gia tăng đáng kể. Đồng thời số liệu
điều tra cũng cho thấy phần lớn người di cư
không di chuyển cùng gia đình, lý do có thể
là họ chưa lập gia đình hoặc gia đình họ vẫn
đang cư trú tại địa bàn nơi họ ra đi. Hầu hết
người di cư là vì lý do kinh tế bao gồm những
người tìm việc làm, những người muốn tăng
thêm thu nhập và nâng cao điều kiện sống và
những người di cư theo gia đình có mục đích
nêu trên.
Phần lớn những người di cư trong nước vì lý
do kinh tế không nằm trong chương trình di cư
của Chính phủ vì thế họ được gọi là “người
di cư tự do”. Trong khi các chương trình di cư
của Chính phủ - hầu hết là các chương trình
định cư đã giảm đáng kể từ những năm 1990,
gần đây đã có một số chương trình tái định
cư vì các lý do môi trường ví dụ như do thiên
tai và thay đổi khí hậu.
Di cư trong nước ở Việt Nam bao gồm di cư
lâu dài, di cư ngắn hạn (di cư tạm thời) hay
di cư mùa vụ. Đáng tiếc là hầu hết các số liệu
cấp quốc gia và các dữ liệu có quy mô lớn
về di cư trong nước ở Việt Nam chưa thống
kê được đầy đủ về hai xu thế di cư ngắn hạn
và di cư mùa vụ này. Nguyên nhân có thể là
TÓM TẮT
Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
7
do phương pháp chọn mẫu và khái niệm về
phạm vi di cư sử dụng trong các cuộc điều
tra không đề cập đến các trường hợp di cư
ngắn hạn và di cư vụ mùa. Tuy nhiên một
số nghiên cứu quy mô nhỏ đã cho thấy rằng
nhóm người di chuyển chưa được thống kê
này là khá lớn và chiếm đa số trong số người
đi tìm việc làm phi nông nghiệp trong thời
gian nông nhàn cũng như trong số những
người di cư tới các khu xây dựng và các khu
vực thành thị để tìm việc làm.
Các dòng di cư chủ yếu hướng tới các khu
vực thành thị và các khu công nghiệp nơi có
nhiều cơ hội việc làm. Chính điều này dẫn
tới sự tăng dân số ở khu vực thành thị với
tỷ lệ tăng dân số hàng năm lên tới 3,4% so
với mức tăng dân số ở khu vực nông thôn
là 0,4%. Với sự tương quan chặt chẽ giữa
di cư và phát triển kinh tế, động thái di cư
trong nước cũng đang thay đổi để thích ứng
với các vấn đề hiện tại như khủng hoảng tài
chính toàn cầu, thay đổi khí hậu và cơ cấu
nhân khẩu học và chắc chắn những thay đổi
này vẫn sẽ còn tiếp diễn trong tương lai.
Di cư và phát triển
Trước hết, cần lưu ý rằng do chưa có đầy đủ
nguồn số liệu đã làm hạn chế nghiêm trọng tới
các phân tích về di cư trong nước dưới đây.
Đáng tiếc là đối tượng người di cư có đăng ký
tạm trú và người di cư không đăng ký hộ khẩu
chưa được thống kê đầy đủ trong các cuộc
điều tra của Chính phủ về hộ gia đình ví dụ
như trong Điều tra Mức sống Hộ gia đình ở
Việt Nam, loại hình người di cư trong nước vì
lý do kinh tế này thường là những đối tượng
chưa được đề cập tới và thường là những
người yếu thế và chưa được quan tâm tới
trong quá trình lập kế hoạch của Chính phủ.
Với phương thức tiếp cận dựa trên vấn đề
giới và quyền, nghiên cứu này sử dụng ba
lăng kính nhằm xem xét tác động của phát
triển lên vấn đề di cư, cụ thể là (1) lên bản
thân người di cư, (2) lên nơi đến và (3) nơi đi
của người di cư.
1) Người di cư
Ở Việt Nam, rất nhiều người di cư trong nước
với mục đích tìm việc làm tại nơi di cư đến đã
tìm được công việc được trả công xứng đáng
với môi trường làm việc an toàn và họ cho
biết rằng họ hài lòng với cuộc sống sau khi
di cư. Các bằng chứng cho thấy người dân
di cư thường bắt đầu tìm việc làm tại nơi đến
ngay sau khi tới nơi hoặc họ đã xin việc trước
khi di cư đến. Họ thường làm việc chăm chỉ
và giữ được công ăn việc làm ổn định hơn
so với người không di cư. Tuy nhiên, những
người di cư thường thấy mình yếu thế hơn
so với người dân sở tại, đặc biệt là trong thị
trường lao động. Những người này thường
tập trung ở một số ngành nghề nhất định và
thường ít được đảm bảo công việc hơn hoặc
phải làm các công việc với mức lương thấp
và thường không được hưởng trợ cấp xã hội,
bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm thất nghiệp nếu
họ không được ký hợp đồng lao động.
So với người không di cư, người di cư gặp
nhiều khó khăn khi tiếp cận với các dịch vụ
xã hội bởi do thực trạng đăng ký hộ khẩu của
họ (họ là những người đăng ký tạm trú hoặc
không đăng ký tạm trú). Người di cư phải chi
trả trực tiếp cho các dịch vụ này bằng tiền mặt
mà không được hoàn trả (ví dụ do người di
cư không có bảo hiểm y tế). Thực tế là người
dân di cư phải sử dụng các dịch vụ xã hội tư
nhân đắt đỏ hơn nhiều ví dụ như chăm sóc y
tế, chính điều này làm trầm trọng thêm sự bất
bình đẳng hiện tại và tăng tình trạng nghèo
đói đô thị. Tình trạng này đặc biệt sâu sắc
với một số nhóm dân di cư đặc biệt yếu thế,
chẳng hạn như trẻ em di cư, người di cư là
nữ hoặc các gia đình di cư có trẻ em đi cùng
vì họ ít hoặc không tiếp cận với các tổ chức
hỗ trợ chính thức và họ thường không được
tiếp xúc tới các mạng lưới xã hội cần thiết. Vì
người dân di cư thường cố gắng giành dụm
tiền để gửi về nhà nên họ thường giảm các
chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của mình,
chẳng hạn họ tự kê thuốc cho mình thay vì
đến khám bác sỹ và họ thường sống trong
những căn nhà chất lượng kém và mất vệ
sinh. Sự kết hợp của các yếu tố này cộng
thêm việc ít tiếp cận tới các thông tin Chính
Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
8
phủ cung cấp, không tiếp cận với các tổ chức
quần chúng và các hỗ trợ của Chính phủ đã
làm tăng sự yếu thế của người dân di cư và
điều này đòi hỏi cần có giải pháp và sự quan
tâm nhiều hơn.
2) Địa phương có dân di cư đến
Nơi đến phổ biến nhất của người di cư tự
do thường là các khu vực thành thị hoặc khu
công nghiệp và điều này ảnh hưởng tới quá
trình đô thị hóa và hiện nay dân số sinh sống
ở các khu vực thành thị chiếm tới gần 30%
tổng số dân của cả nước. Điều này gây áp lực
lên hệ thống dịch vụ và cơ sở hạ tầng hiện
tại của các khu vực đô thị như nhà ở, giáo
dục, y tế, nước sạch và vệ sinh, giao thông
với những hậu quả về kinh tế, xã hội và y tế.
Trong cuộc điều tra Di cư tại Việt Nam tiến
hành năm 2004, những người di cư cho biết
vấn đề nhà ở là điều họ không hài lòng nhất.
Nhiều người trong số họ phải sống trong các
khu nhà tạm, các nhà trọ tồi tàn và phải trả
tiền thuê hàng ngày hoặc họ phải sống ngay
cạnh nơi làm việc, nhất là khi họ làm trong
lĩnh vực xây dựng. Đặc biệt phụ nữ khi di cư
cho biết môi trường nhà ở là vấn đề khó khăn
họ gặp phải và họ thường yếu thế hơn trong
tiếp cận chăm sóc sức khỏe và đảm bảo sự
an toàn cho bản thân. Thực trạng ở các khu
công nghiệp cũng rất đáng báo động với điều
kiện sống được miêu tả là chật hẹp, không an
toàn và mất vệ sinh.
Gần đây Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ
lực đáng kể nhằm cải thiện tình hình nhà ở.
Đáng tiếc là những nỗ lực này vẫn chưa tác
động được tới các nhóm túng thiếu và yếu thế
nhất vì những người nào không đăng ký hộ
khẩu thì sẽ không đủ điều kiện xin nhà xã hội.
Với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa
diễn ra nhanh chóng ở Việt Nam trong vòng
hai thập kỷ qua và với các dấu hiệu cho thấy
các xu thế này sẽ còn tiếp diễn trong tương
lai thì vấn đề cấp bách là phải cân nhắc tới
tất cả mọi đối tượng dân cư cho dù họ có hộ
khẩu hay không khi xây dựng kế hoạch và
phân bổ ngân sách đô thị nhằm đảm bảo có
đủ nhà ở và cơ sở hạ tầng.
3) Các địa bàn có người di cư đi
Xét theo một vài khía cạnh nào đó các cộng
đồng có người di cư đi - cũng thường là nơi
họ sẽ trở về, là nơi được hưởng thêm lợi ích
nhờ di cư. Trên thực tế người dân di cư chỉ
chiếm 7,7% tổng dân số nhưng những người
di cư trong nước vì mục đích kinh tế ở Việt
Nam thường di chuyển với mục đích giúp đỡ
gia đình - thường là gia đình có nhiều người
và nhiều thế hệ cùng chung sống. Theo số
liệu của Điều tra mức sống hộ dân cư năm
2004, 88,7% các hộ gia đình có người di cư
có nhận được tiền gửi dưới hình thức này
hoặc hình thức khác. Điều này cho thấy tác
động to lớn của di cư trên toàn quốc. Hầu
hết số tiền gửi này được chi dùng cho giáo
dục và các chi phí chăm sóc sức khỏe cho
các gia đình nghèo, nhờ đó giảm đi sự khác
biệt giữa các khu vực thành thị và nông thôn.
Tuy nhiên tác động của di cư tới cộng đồng
nơi đi là rất đa dạng, phức tạp, bao gồm cả
tác động về tâm lý và xã hội mà gia đình phải
trải qua, khi thiếu đi một thành viên trong gia
đình, cha mẹ hoặc vợ chồng. Di cư tác động
tới cơ cấu phân công trách nhiệm trong gia
đình, kể cả phân công giới và phân công giữa
các thế hệ. Tác động của di cư đối với trẻ em
trong hộ gia đình có người di cư ở nơi đi là
lĩnh vực khác cần được quan tâm, hiện chưa
có nhiều thông tin về vấn đề này trong bối
cảnh di cư trong nước ở Việt Nam. Một tác
động khác lên cộng đồng nơi đi khi người di
cư trở về địa phương là kết quả tích cực hoặc
tiêu cực của việc chuyển giao kiến thức và
hành vi của người di cư khi trở về. Liên quan
tới vấn đề này, các kết quả nghiên cứu khẳng
định rằng nhóm người di cư trở về cùng với
HIV đã lây truyền sang cho vợ/chồng ở quê
nhà là vấn đề rất đáng lo ngại.
Kết luận và Khuyến nghị
Di cư là một yếu tố đóng góp quan trọng và
không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế
xã hội của Việt Nam. Di cư chính là cơ hội
thúc đẩy sự phát triển đồng đều và rộng khắp
và giảm sự khác biệt vốn có giữa các vùng,
thông qua việc đáp ứng được phần lớn nhu
cầu lao động cho phát triển công nghiệp và
Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
9
đầu tư nước ngoài sau khi có chính sách Đổi
Mới, và sự dịch chuyển một phần thu nhập về
các vùng nghèo hơn.
Người ta cho rằng trong phát triển bao giờ
cũng có người thắng người thua. Rất nhiều
cá nhân và hộ gia đình đưa ra quyết định di
chuyển tới nơi khác với mục đích tìm kiếm
một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng họ chưa
phải là những người chiến thắng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Chính vì vậy, việc đảm bảo quyền của những
đối tượng này và đẩy mạnh những tác động
của di cư để mang lại nhiều lợi ích nhất cho
cá nhân người di cư, gia đình họ và cộng
đồng là một nhiệm vụ quan trọng cho phát
triển ở Việt Nam trong tương lai.
Bài viết này chỉ ra rằng các tác động này sẽ
phụ thuộc vào các môi trường chính trị, kinh
tế xã hội đồng thời phụ thuộc vào hành vi và
nguồn lực của cá nhân người di cư và gia
đình của họ. Để có thể tận dụng tối đa lợi ích
của quá trình di cư, Chính phủ, chính quyền
địa phương và khu vực tư nhân đều có những
vai trò trong việc tạo ra một môi trường đầy
đủ cho người di cư, cho các hộ gia đình và
cho xã hội.
Khuyến nghị
1) Cần có số liệu chính xác và có sự hiểu
biết hơn về các quá trình di cư trong
nước nhằm cung cấp thông tin cho quá
trình hoạch định chính sách. Điều này
bao gồm yêu cầu nâng cao chất lượng
số liệu tổng điều tra dân số và các số liệu
cấp quốc gia để có được đầy đủ thông tin
về tình hình di cư trong nước đồng thời
cần tiến hành những nghiên cứu còn thiếu
như nghiên cứu về các dòng di cư nông
thôn-nông thôn theo mùa, nghiên cứu về
sức khỏe sinh sản cho nhóm di cư nữ,
nghiên cứu về tình trạng nhà ở tại các khu
công nghiệp và tác động của thay đổi về
môi trường và thiên tai tới vấn đề di cư.
2) Đảm bảo di cư an toàn và thành công
cho người di cư trong nước bằng cách
xóa bỏ những rào cản hạn chế di cư và
không yêu cầu hộ khẩu của người di cư
khi họ tiếp cận với các dịch vụ xã hội.
Các lợi ích tiềm năng của di cư cần được
khuyến khích bằng việc lồng ghép vấn đề
này vào quá trình xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội cũng như những chiến
lược xóa đói giảm nghèo.
3) Tăng cường lợi ích của di cư trong
nước tại những vùng có người di cư
đến. Kế hoạch phát triển đô thị cần chú
ý đến số dân thực tế bao gồm cả những
người di cư không đăng ký hộ khẩu và
những người di cư có đăng ký tạm trú, chú
trọng tới các kế hoạch cho người nghèo,
thông qua việc cung cấp nơi ở an toàn và
hợp vệ sinh cho những gia đình có thu
nhập thấp. Chính phủ và người sử dụng
lao động tư nhân cần chú ý hơn nữa tới
vấn đề nhà ở và an ninh cho lao động di
cư nam và nữ làm việc tại các khu công
nghiệp. Cần nỗ lực hơn nữa để có thể
đảm bảo rằng người dân di cư có thể hòa
nhập được với cộng đồng nơi di cư đến
thông qua việc xóa bỏ đi sự kỳ thị và hỗ
trợ người dân di cư tiếp cận với những
chương trình xóa đói giảm nghèo và các
dịch vụ xã hội khác.
4) Nâng cao lợi ích của di cư trong nước
tại địa bàn có dân di cư đi thông qua việc
hỗ trợ người di cư nắm bắt cơ hội và chia
xẻ những kiến thức và kỹ năng mới học
được khi trở về và khuyến khích họ sử
dụng tiền gửi về một cách tốt nhất theo
sự lựa chọn của họ. Cũng cần hỗ trợ các
thành viên trong gia đình của người di cư
hiện đang sinh sống tại địa phương, để có
thể đương đầu với việc (tạm thời) thiếu đi
một thành viên trong gia đình.
Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
10
Giống như nhiều
quốc gia khác khi
trải qua sự phát
triển kinh tế xã hội
nhanh chóng, trong
vòng 20 năm trở lại
đây Việt Nam đã
chứng kiến sự tăng
theo cấp số nhân
của dòng người di
cư cả trong nước và
quốc tế. Càng ngày
người ta càng thừa
nhận rằng quá trình
phát triển và di cư
luôn đi đôi với nhau.
Di cư vừa là động
lực thúc đẩy lại vừa
là kết quả của sự
phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia
1
.
Ở Việt Nam, chính sách Đổi Mới được thực
thi kể từ giữa những năm 1980 chính là chất
xúc tác cho dòng di cư trong nước gia tăng
khi đất nước chuyển từ nền kinh tế tập trung
sang một nền kinh tế thị trường. Các cải cách
này không chỉ cho phép người dân được di
chuyển khỏi địa bàn cư trú gốc của mình mà
còn tạo ra lực “đẩy” và “hút” cho quá trình di
cư này.
Tác động về phát triển kinh tế xã hội của
chính sách Đổi Mới được đánh giá là rất
thành công. Tỷ lệ đói nghèo đã giảm từ 70%
từ giữa thập niên 80 xuống còn 58% vào
năm 1993 và chỉ còn 14% vào năm 2008
2
.
Tốc độ phát triển của Việt Nam thay đổi từ số
âm sang số dương và tăng lên tới 7-8% hàng
năm, tuổi thọ trung bình đã tăng lên và tỷ lệ
tử vong trẻ sơ sinh đã giảm
3
. Tuy nhiên đóng
góp của di cư trong nước vào những thành
công này lại chưa được ghi nhận đầy đủ. Sự
ra đời của khu vực tư nhân cùng với sự xuất
hiện của các doanh nghiệp tư nhân, phần
lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài không thể có những tác động to lớn
nếu không có sự đóng góp của một lực lượng
lao động đông đảo di chuyển tới các khu vực
này
4
. Một mặt cần nhìn nhận cải cách kinh tế
mang lại nhiều cơ hội và khả năng di chuyển
cho nhiều người, mặt khác cũng cần phải ghi
nhận sự sẵn sàng của người di cư và gia đình
họ để rời bỏ nơi ở gốc của mình (đôi khi là
rời xa gia đình họ). Với tư cách đại diện cho
một bộ phận đáng kể của lực lượng lao động,
người di cư là nền tảng cơ sở cho phát triển
kinh tế xã hội của Việt Nam.
Một điểm quan trọng thứ hai khi xem xét
đóng góp của di cư đối với phát triển là xem
xét phát triển có tác động thế nào tới di cư.
GIỚI THIỆU CHUNG
1 IOM (2005), Di cư quốc tế và Phát triển: Nhìn nhận từ góc độ Toàn cầu, Nghiên cứu về di cư của IOM, số
19, trang 5; UNDP (2009), Báo cáo phát triển Nhân lực năm 2009- Vượt qua các rào cản: Di chuyển của con
người và sự phát triển.
2 Ngân hàng Thế giới (2009), Cập nhật Tình hình Phát triển Kinh tế của Việt Nam gần đây, tài liệu của Ngân
hàng Thế giới chuẩn bị cho cuộc Họp nhóm Tư vấn thường niên, tháng 12 năm 2009. Số liệu này lấy từ số
liệu điều tra Mức sống hộ gia đình của Việt Nam.
3 Le Bach Duong và cộng sự (2005), Bảo trợ xã hội cho những người thiệt thòi nhất ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Thế giới, Hà Nội. Trung tâm Kinh tế Quốc tế (2002), “Đánh giá đói nghèo ở Việt Nam”, bài viết chuẩn
bị cho AusAID. Chu Thi Trung Hau và Dickie Paul M. (2006). Giai đoạn quá độ kinh tế ở Việt Nam: Từ đổi
mới tới gia nhập WTO. Chương trình đào tạo chính sách công, Nghiên cứu số 1.
4 Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001), Báo cáo Phát triển Nhân lực quốc gia 2001: Đổi
mới và Phát triển Con người ở Việt Nam.
Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
11
Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được
còn chưa đồng đều
5
. Cũng giống những
thành tựu về kinh tế xã hội của bất kỳ quốc
gia nào khác, một vài khu vực nào đó hoặc
một vài đối tượng nào đó sẽ được hưởng lợi
hơn những khu vực/đối tượng khác. Số liệu
minh chứng về sự phân bổ đói nghèo và các
khu vực kém phát triển ở Việt Nam đã cho
thấy rằng một trong những sự khác biệt này
là sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị và
những người dân cư trú ở khu vực thành thị
có lợi thế đáng kể hơn trong việc thụ hưởng
lợi ích của sự phát triển
6
. Các số liệu cho thấy
thu nhập trung bình của cư dân thành thị ở
Việt Nam cao gấp khoảng 2 lần thu nhập của
người dân nông thôn. Có thể thấy sự khác
biệt tương tự giữa các vùng của Việt Nam khi
thu nhập trung bình của cư dân vùng Đông
Nam Bộ cao hơn ba lần thu nhập của cư dân
vùng Tây Bắc, một con số tăng ổn định trong
suốt thập niên trước
7
. Chính sự khác biệt này
đã làm gia tăng đáng kể số lượng các hộ gia
đình nông thôn và các hộ gia đình ở một số
khu vực nhất định chấp nhận các chiến lược
di cư, có thể là di chuyển nội tỉnh, có thể là di
chuyển liên tỉnh, tới nơi có nhiều đất đai hơn,
hoặc đôi khi là tìm việc làm phi nông nghiệp
tại các khu vực nông thôn khác. Trong nhiều
trường hợp, người dân di cư tìm kiếm các cơ
hội việc làm tại các khu vực thành thị và các
khu trung tâm công nghiệp để “kiếm tiền” từ
sự phát triển và giàu có của các khu vực này
và để có thể có thêm nguồn thu nhập cho gia
đình
8
.
Dù có sự phức tạp trong mối quan hệ qua lại
giữa di cư và phát triển, có một điều rõ ràng
là không nên coi di cư là yếu tố cản trợ sự
phát triển. Tuy nhiên, cũng không nên coi đây
là liều thuốc chữa bệnh đói nghèo và bất bình
đẳng về thu nhập. Sự di chuyển của người
dân là điều tự nhiên và không thể chối bỏ
trong lịch sử loài người và trong các biến cố
xảy ra gần đây trên thế giới. Để công nhận
thực tế này, chúng ta có thể nhận định rằng
di cư mang lại cả cơ hội và thách thức cho
phát triển. Di cư trong nước có thể đóng góp
nhiều hơn cho sự tăng trưởng kinh tế cả ở
cấp độ quốc gia và hộ gia đình. Di cư có thể
đẩy mạnh mối quan hệ giữa nơi đi và nơi đến,
không chỉ đơn thuần thông qua số tiền người
di cư gửi về, mà còn qua việc chuyển giao
kiến thức và kỹ năng, và vì thế góp phần làm
giảm sự khác biệt giữa các vùng. Hỗ trợ di cư
còn là hỗ trợ quyết định của mỗi cá nhân và
gia đình về cuộc sống của họ, hay nói cách
khác việc hỗ trợ này sẽ đóng góp vào việc
tạo sức mạnh về kinh tế vã xã hội cho người
dân di cư.
Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều thách thức đối
với vấn đề này. Các thách thức lớn nhất là
đảm bảo các quyền cho người di cư nữ, nam,
trẻ em trai và trẻ em gái. Các quyền đề cập
ở đây bao gồm các quyền đã được đề cập
trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền và
các quyền được quy định trong Hiến pháp
của nhà nước Việt Nam. Điều này bao gồm
việc đảm bảo người di cư có cơ hội tiếp cận
bình đẳng với các quyền mà tất cả mọi người
dân đều được hưởng, trong đó có rất nhiều
quyền liên quan tới điều kiện sống cơ bản và
vấn đề việc làm.
Các tác động cụ thể của di cư, cho dù là tác
động tích cực hay tiêu cực đối với quá trình
5 Bhushan, Indu, Bloom Erik và Nguyễn Minh Thắng (2002), Lợi ích chưa đồng đều của phát triển ở Việt Nam,
Ngân hàng phát triển Châu Á, Ban nghiên cứu và kinh tế, Nghiên cứu Chính sách số 3; Scott, Steffanie và
Truong Thi Kim Chuyen (2004) ‘Đằng sau những con số: Di chuyển xã hội, sự khác biệt giữa các vùng và
quỹ đạo phát triển mới ở nông thôn Việt Nam’ trong Philip Taylor (ed.), Mất cân bằng xã hội ở Việt Nam: Các
thách thức cho đổi mới, Viện nghiên cứu Singapore về Đông Nam Á (ISEAS).
6 Chẳng hạn, năm 1998, thu nhập trung bình của thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh cao hơn từ 5-7 lần thu
nhập của người nông dân. Scott và Chuyen (2004), chú ý 5.
7 Kết quả Điều tra mức sống hộ gia đình 2002 & Điều tra mức sống hộ gia đình 2006: TCTK (2004), Kết quả
Điều tra mức sống hộ gia đình 2002, Nhà Xuất bản Thống kê Hà Nội; TCTK (2007), Kết quả Điều tra mức
sống hộ gia đình 2006. Nhà Xuất bản Thống kê Hà Nội.
8 Nghị định 773 TTg (ban hành ngày 21 tháng 12, 1994). Trang 35.
Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
12
phát triển phụ thuộc vào các môi trường chính
trị, kinh tế và xã hội, đồng thời phụ thuộc vào
hành vi và nguồn lực của người di cư và gia
đình của họ
9
. Di cư chứa đựng những tiềm
năng đáng kể có lợi cho sự phát triển kinh tế
xã hội nhưng để có thể khai thác tiềm năng
này, cần phải xây dựng các chính sách đồng
bộ dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về các dòng
di cư, quy mô và các đặc điểm nhân khẩu
học của di cư trong nước. Cần có hiểu biết về
kinh nghiệm của người di cư, và tác động của
những di chuyển này tới các địa phương nơi
đi và nơi đến.
1.1. Phạm vi phân tích
Bài viết này tập trung vào vấn đề di cư trong
nước vì lý do kinh tế ở Việt Nam. Chính vì
thế “người di cư” đề cập ở đây bao gồm
những người dân di chuyển trong phạm vi
lãnh thổ Việt Nam bất luận thời gian cư trú ở
nơi đến là bao lâu. Khoảng cách địa lý giữa
nơi đi và nơi đến của di cư cũng không bị
hạn chế, tuy nhiên tối thiểu là có sự thay đổi
về địa giới hành chính, chẳng hạn ranh giới
xã hoặc tỉnh.
Cần thừa nhận tính liên tục của xu hướng di
cư trong nước và di cư quốc tế đồng thời nhìn
nhận khả năng đóng góp đáng kể của các xu
hướng này với sự phát triển kinh tế xã hội
của Việt Nam
10
. Hai mô hình di cư này đều
có động lực tương tự như nhau của cá nhân
và hộ gia đình và đều có tác động giống nhau
lên cộng đồng và hộ gia đình nơi đi. Tuy nhiên
những gì mà người di dân quốc tế trải nghiệm
có thể khác xa với kinh nghiệm của người di
dân trong nước, tùy theo địa điểm mà họ di
cư tới. Chính vì lý do này và do số lượng lớn
những người tham gia vào loại hình di cư này,
bài viết này sẽ chỉ tập trung vào loại hình di
cư trong nước
11
.
Các tài liệu về di cư ở Việt Nam còn rất dàn
trải. Các tài liệu này nhóm các di chuyển theo
nơi đến, động cơ di chuyển, và sự tham gia
của chính phủ. Một mặt sự phân nhóm này
hỗ trợ những thảo luận về các khía cạnh cụ
thể của di cư, nhưng nó cũng có hạn chế khi
nhìn nhận vấn đề di cư một cách toàn diện.
Bài viết này sẽ cố gắng xem xét vấn đề di cư
trong nước ở Việt Nam một cách toàn diện;
tuy nhiên khó khăn gặp phải khi nghiên cứu
vấn đề này là do các số liệu và các nghiên
cứu còn rất hạn chế. Chính vì thế bài viết này
không thể nghiên cứu đồng đều tất cả các
khía cạnh về di cư ở Việt Nam. Phần lớn các
phân tích ở đây tập trung vào di cư tới các
khu vực thành thị mặc dù con số thống kê từ
các cuộc tổng điều tra dân số trong giai đoạn
1994 - 1999 ghi nhận một nửa số di cư trong
giai đoạn này là di cư tới các khu vực nông
thôn. Bài viết này cũng tập trung vào những
vấn đề của di cư tự do, những người di cư
không nằm trong các chương trình di dân của
Chính phủ. Sự khác biệt giữa di cư tự do và
di dân theo các chương trình của Chính phủ
là khá rõ ràng cả về quy mô và các vấn đề
bảo hộ. Tuy nhiên các số liệu tổng điều tra
dân số và các số liệu được sử dụng trong bài
viết này đã không phân biệt hai loại hình này,
chính vì thế không thể phân tách ra được các
xu hướng di cư nông thôn - thành thị trong
các loại hình di cư này.
Các phân tích trong tài liệu này bao gồm các
xu hướng nổi trội của di cư trong nước vì lý
do kinh tế ở Việt Nam, tác động của nó tới sự
9 Đây là một điểm quan trọng mà Đối thoại cấp cao của UN về Di cư quốc tế và phát triển đã xác định,
tuy nhiên nó cũng liên quan tới các vấn đề bàn thảo về di cư trong nước.
10 Có ba mối quan hệ lớn giữa di cư quốc tế và di cư trong nước đã được xác định: di cư từng bước là loại
hình mà người di cư di chuyển trong nước trước rồi sau đó di cư quốc tế; di cư thay thế là xu hướng
người di dân trong nước di cư để đảm nhận những vị trí công việc mà người di dân quốc tế để lại và di
dân trở về là xu thế người di dân trở lại nơi cư trú gốc của mình: (2008) Di cư thế giới 2008: Quản lý sự
dịch chuyển lao động trong nền kinh tế toàn cầu đang phát triển, Báo cáo di cư thế giới số 4 trang 182.
IOM.
11 Theo tổng điều tra dân số năm 1999, có 4,5 triệu người di cư trong nước trong vòng 5 năm trước cuộc
điều tra và khoảng 300.000 người di cư quốc tế: Ban chỉ đạo tổng điều tra trung ương (1999), Điều tra
dân số và nhà ở năm 1999: Kết quả chọn mẫu (“Điều tra năm 1999”).
Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
13
12 Tổng điều tra dân số năm 1999; GSO và UNFPA (2005), Điều tra Di cư Việt Nam năm 2004: Các kết quả
chính, Nhà xuất bản Thống kê, TCTK (“2004 VMS”); TCTK (1992), Điều tra mức sống dân cư năm 1992
(“1992 VLSS”); TCTK (1998), Điều tra mức sống dân cư năm 1998 (“1998 VLSS”); TCTK (2004), Điều tra
mức sống hộ gia đình năm 2004 (“2004 VHLSS”).
phát triển kinh tế, xã hội và những khó khăn
thách thức mà người di cư gặp phải trong
quá trình di cư. Ba “lăng kính” sẽ được sử
dụng để phân tích tác động của di cư đến sự
phát triển. “Lăng kính” thứ nhất sẽ xem xét về
người di cư một mình hoặc người di cư có gia
đình đi cùng, đồng thời đề cập tới những vấn
đề về bảo trợ xã hội và pháp lý cho người dân
di cư và khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ
bản của họ. “Lăng kính” thứ hai đánh giá tác
động của di cư đến cộng đồng nơi đến, chủ
yếu là các khu vực thành thị và các khu vực
kinh tế mới và đề cập tới các vấn đề xây dựng
kế hoạch cần phải giải quyết. “Lăng kính” thứ
ba và cũng là lăng kính cuối cùng tập trung
vào cộng đồng tại nơi đi và giải quyết các câu
hỏi về tác động của việc di cư đến gia đình ở
lại bao gồm cả vấn đề gửi tiền về và chuyển
giao kiến thức khi người di cư trở về gia đình.
Các khía cạnh giới cũng được phân tích dưới
mỗi lăng kính và vì thế đòi hỏi có sự xem xét
cụ thể về các tác động khác nhau, về năng
lực và đặc điểm yếu thế của cả nam và nữ di
cư. Bài viết cũng sử dụng cách tiếp cận dựa
vào quyền và coi người di cư là một nhóm mà
các quyền của họ thường chưa được công
nhận đầy đủ, mặc dù các quyền này đã được
thừa nhận trong các chuẩn mực quốc tế và
quy định trong khung pháp lý của Việt Nam.
Thiếu sót này có thể do đói nghèo, do không
tiếp cận được với các dịch vụ cơ bản, kiến
thức về một số quyền cụ thể còn hạn chế,
không quen với nơi đến và có thể do kỳ thị
về mặt xã hội hoặc bị phân biệt đối xử. Trong
nhiều trường hợp, mặc dù quyền của người
dân di cư được đảm bảo trên giấy tờ nhưng
trên thực tế vẫn có nhiều yếu tố cản trở sự
tiếp cận toàn diện đối với các quyền này. Tóm
lại, bài viết này đưa ra những khuyến nghị hỗ
trợ việc xây dựng các chính sách can thiệp
phù hợp nhằm phát huy tối đa đóng góp của
di cư vào quá trình phát triển kinh tế xã hội và
phát triển nhân lực của Việt Nam và đảm bảo
rằng quyền của người di cư và gia đình của
họ được thực hiện.
1.2. Phương pháp luận và các điểm
hạn chế
Các phân tích về di cư trong nước ở Việt
Nam trong bài viết này đã sử dụng các số liệu
và các nghiên cứu hiện có. Phần lớn các số
liệu định lượng được lấy từ cuộc điều tra Dân
số và Nhà ở năm 1999 và năm 2009 và điều
tra Mức sống hộ gia đình năm 1992, 1998 và
2004
12
. Tuy nhiên một hạn chế quan trọng
cần phải được lưu ý là hầu hết các số liệu đại
diện cho toàn bộ dân số đều chưa tính tới một
số nhóm người di cư và các dòng di cư của
họ. Đó là do quy mô mẫu và do cách thể hiện
các câu hỏi có liên quan tới di cư trong cuộc
điều tra. Vì lý do này, các số liệu quốc gia, đã
được bổ sung các số liệu định tính và định
lượng với quy mô nhỏ hơn. Những số liệu
này giúp hiểu biết sâu hơn về các mô hình di
cư và các vấn đề trong các lĩnh vực cụ thể.
Dưới đây sẽ đề cập đến những hạn chế của
các số liệu quốc gia và các số liệu có quy mô
lớn sử dụng trong bài viết nhằm đưa ra một
bức tranh chính xác hơn về những đối tượng
thường bị bỏ sót trong điều tra.
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999 và
2009 đã đưa ra bức tranh cập nhật nhất và
mang tính đại diện nhân khẩu học nhất về các
dòng di cư trong nước ở Việt Nam. Tuy nhiên
Tổng điều tra định nghĩa người di cư là người
có nơi cư trú tại thời điểm điều tra khác với
nơi họ cư trú 5 năm trước đó. Định nghĩa này
đã bỏ sót những người di cư lâu hơn 5 năm về
trước, bỏ qua những người di cư trong vòng
5 năm trở lại đây nhưng đã trở về nhà trước
thời điểm điều tra, và bỏ qua những người di
cư mùa vụ và di cư tạm thời, vì họ thường chỉ
di cư trong thời gian ngắn. Chính những lý do
này mà tổng số người di cư trong nước trong
điều tra dân số không tính những người đã di
cư được hơn 5 năm, những người di cư mùa
vụ, di cư tạm thời, di cư con lắc với thời gian
di cư ít hơn 5 năm nhưng đã trở về nơi ở cũ.

Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
14
Cuộc điều tra Di cư Việt Nam năm 2004 với
mẫu nghiên cứu nhỏ hơn so với cuộc tổng
điều tra dân số, nhưng với mục đích của
cuộc điều tra chuyên sâu về di cư, đã cung
cấp những kiến thức sâu về kinh nghiệm của
người di cư và gia đình họ. Các thông tin thu
thập được bao gồm động cơ di cư, mức độ
hài lòng khi di cư, tiền gửi của người di cư, bối
cảnh di cư trong các sự kiện đời sống của hộ
gia đình. Ngoài ra các địa bàn lựa chọn cho
cuộc điều tra bao gồm các xã và các phường
mà cuộc tổng điều tra dân số năm 1999 ghi
nhận là có nhiều người dân tạm trú đang cư
trú
13
. Chính vì thế cuộc điều tra di cư này bao
gồm một số lượng đáng kể người di cư tạm
thời và một số lượng ít hơn là nhóm người di
cư không đăng ký tạm trú.
Kết quả điều tra mức sống dân cư của Việt
Nam năm 1992 và năm 1998 và điều tra mức
sống hộ gia đình ở Việt Nam từ năm 2002
cũng là các nguồn thông tin quan trọng khác,
đặc biệt là các thông tin về tiền người di cư
gửi về gia đình, tác động của di cư theo thời
gian (mỗi cuộc điều tra đều có một số hộ gia
đình đã được điều tra trong những điều tra
trước đó) và quan trọng hơn là có các thông
tin về di cư mùa vụ. Tuy nhiên những cuộc
điều tra này đều có điểm hạn chế chung liên
quan đến mẫu điều tra đã được đề cập ở trên,
cụ thể là chỉ tính các hộ gia đình thực tế cư
trú trên địa bàn xã và phường của khu vực
thành thị hoặc những người mới di chuyển
đến sống tại địa bàn điều tra đã được ít nhất
6 tháng. Chính vì thế những người mới di
chuyển đến nơi mới ít hơn 6 tháng hầu như
chưa được tính đến. Một vấn đề khác là cũng
phải mất từ 6 đến 12 tháng giữa các lần chọn
hộ gia đình từ danh sách hộ gia đình của xã
và phường và thời gian điều tra phỏng vấn
14
.
Điều này cho thấy điều tra vẫn bỏ xót các hộ
gia đình mới và cũng là lời giải đáp cho tỷ lệ
không trả lời cao ở các khu vực thành thị. Đây
là một điều hiển nhiên khi lưu ý rằng kết quả
của cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm
2004 cho biết chỉ có 3,8% dân số thành phố
Hồ Chí Minh là các hộ gia đình thuộc nhóm
KT3 hoặc đăng ký KT4
15
. Ngược lại điều tra
giữa kỳ của hai cuộc tổng điều tra của Thành
phố Hồ Chí Minh trong cùng năm đó cho thấy
rằng các hộ này chiếm gần 20% dân số ở
đây
16
. Số dân trong độ tuổi từ 20-29 (đây là
độ tuổi tập trung người di cư) trong cuộc điều
tra mức sống hộ gia đình năm 2004 cũng ít
hơn con số trong tổng điều tra năm 1999 từ
20-30% và điều này cũng gợi ra giả thuyết
rằng có một số lượng lớn người di cư một
mình và các hộ gia đình di cư chưa được tính
trong cuộc điều tra. Điều tra biến động dân số
hàng năm là một nguồn thông tin hữu ích về
di cư trong nước vì cuộc điều tra này có sử
dụng một câu hỏi về sự di chuyển nơi cư trú
trong năm trước thời điểm điều tra. Tuy nhiên
cuộc điều tra này cũng chưa nắm bắt được
các động thái di chuyển ngắn hạn nổi trội (đặc
biệt là những di chuyển mùa vụ diễn ra trong
phạm vi một năm) vì rất nhiều người di cư
ngắn hạn này chưa được thống kê. Những
hạn chế này phản ánh những khó khăn trong
việc theo dõi một bộ phận dân số di chuyển
thậm chí ngay từ định nghĩa của nó. Lý do tại
sao những hạn chế này được đề cập nhiều
lần ở đây là vì những đối tượng thường bị
bỏ qua này lại chính là đối tượng của bài viết
này. Một số các nghiên cứu cho rằng trong số
những người dân di cư trong nước vì lý do
kinh tế ở Việt Nam, những người chưa được
thống kê/bị bỏ qua trong các cuộc tổng điều
tra dân số và các cuộc điều tra khác chính là
những người yếu thế nhất và những người
ít được lưu tâm nhất trong quá trình lập kế
hoạch của chính phủ
17
.
13 Điều tra di cư năm 2004.
14 Pincus, John và Sender John (2008), Lượng hóa đói nghèo ở Việt Nam: Ai được tính đến?
15 Xem phần 1.3 Hệ thống đăng kí hộ khẩu, giải thích hệ thống đăng kí hộ khẩu và phân loại KT.
16 Ngân hàng thế giới (2008), Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2008: Bảo trợ xã hội: Báo cáo của các
nhà đồng tài trợ trong cuộc họp nhóm tư vấn Việt Nam, Hà Nội, ngày 6-7 tháng 12 năm 2008.
17 Pincus, John và Sender John (2008), ‘Lượng hóa đói nghèo ở Việt Nam: Ai được tính đến?’ Pfau, Wade
Donald và Giang Thanh Long (2008), Các nhóm chưa được tính trong “đại diện” điều tra hộ gia đình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét