Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2014

Ứng dụng công nghệ GIS và ảnh viễn thám để đánh giá thảm rừng vườn quốc gia chư mom ray tỉnh kon tum




5

2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Một trong những ứng dụng quan trọng của viễn thám là nghiên cứu tài
nguyên thiên nhiên và môi trờng. Viễn thám - tiếng Anh là the remote
sensing- có thể coi nh một phơng thức thu nhận thông tin về các đối tợng
từ một khoảng cách nhất định, mà không cần những tiếp xúc trực tiếp với
chúng. Phơng pháp viễn thám đợc dựa trên nguyên lý cơ bản là: Các đối
tợng tự nhiên trên bề mặt trái đất đã hấp thụ, phản xạ hoặc bức xạ sóng điện
từ trên các dải phổ khác nhau với cờng độ khác nhau[15], [23]. Các tín hiệu
này đợc những thiết bị đặt trên phơng tiện bay trên không tiếp nhận ghi lại
hoặc chuyển về các trạm thu trên mặt đất để xử lý. Hay nói cách khác: Các
thông tin thu đợc là kết quả của việc giải mã hoặc đo đạc những biến đổi mà
đối tợng tác động tới môi trờng xung quanh. Trên cơ sở nguyên lý cơ bản
này, phơng pháp viễn thám nói chung, viễn thám trong điều tra rừng nói
riêng đã đợc hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong sự phát
triển không ngừng của các lĩnh vực kỹ thuật có liên quan (các thiết bị bay,
chụp, truyền thông tin, hệ thống in ấn, sao chụp , xử lý ảnh ). Nh vậy hiểu
một cách đầy đủ, phơng pháp viễn thám đợc tổ chức thực hiện cả ở tầng
không trung và ngay trên mặt đất. Sự phối hợp bổ sung thông tin giữa các tầng
sẽ tạo ra sự hiểu biết sâu sắc, chính xác và ngày càng toàn diện tài nguyên
thiên nhiên nói chung và tài nguyên rừng nói riêng[16]. Do tất cả các đối
tợng tự nhiên trên bề mặt trái đất, ở một góc độ nào đó đều đợc phản ánh
một phần đặc điểm, nội dung trên t liệu viễn thám, nên kỹ thuật viễn thám
thực chất là một kỹ thuật liên ngành bao gồm nhiều lĩnh vực nội dung, kỹ
thuật của các chuyên môn phức tạp khác nhau, đồng thời ứng dụng của chúng
cũng vô cùng phong phú. Dới đây chúng tôi trình bày những nét cơ bản nhất
về lịch sử phát triển kỹ thuật viễn thám nói chung và viễn thám ứng dụng



6

trong Lâm nghiệp nói riêng cùng một số công trình nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nớc.
2.1. Lợc sử nghiên cứu về viễn thám
Lịch sử về viễn thám cho thấy, sự phát triển của kỹ thuật viễn thám luôn
gắn liền với sự phát triển của kỹ thuật chụp ảnh. Bức ảnh đầu tiên đợc chụp
vào năm 1839, tới năm 1849 Aime Laussedat ngời Pháp đã khởi đầu một
chơng trình sử dụng ảnh cho mục đích thành lập bản đồ địa hình[31]. Đến
giữa thế kỷ thứ 19 ngời ta đã sử dụng kinh khí cầu để chụp ảnh từ trên không
và bức ảnh hàng không đầu tiên đợc chụp từ kinh khí cầu cũng là do
Laussedat chụp vào năm 1858. Sang đầu thế kỷ thứ 20 ngời ta đã thử nghiệm
chụp ảnh từ trên không bằng máy bay và bức ảnh đầu tiên đợc chụp từ máy
bay đã đợc Wibur Wright thực hiện năm 1909 trên vùng Centocalli,
Italia[15].
Theo Nguyễn Đình Dơng[15], Phạm Vọng Thành[23], vào giữa những
năm 1930 ngời ta đã chụp ảnh màu và tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu nhằm
tạo ra các lớp cảm quang nhạy với bức xạ gần hồng ngoại có tác dụng hữu
hiệu trong việc loại bỏ ảnh hởng tán xạ và mù khí quyển. Trong chiến tranh
thế giới lần thứ hai ngời ta đã nghiên cứu các tính chất phản xạ phổ của bề
mặt địa hình và chế thử các lớp cảm quang cho việc chụp ảnh màu hồng
ngoại. Đến năm 1956 việc thử nghiệm khả năng chụp ảnh hồng ngoại từ máy
bay đã đợc tiến hành trong việc phân loại và phát hiện các kiểu loại thực vật.
Năm 1960 đợc sự bảo trợ của cơ quan hàng không vũ trụ quốc gia Hoa Kỳ,
nhiều cuộc thử nghiệm về ứng dụng ảnh hồng ngoại màu và ảnh đa phổ đã
đợc tiến hành. Những thành tựu trong lãnh vực này đã đa đến sự phóng vệ
tinh Landsat vào những năm 1970. Việc ứng dụng vệ tinh nhân tạo đã tạo ra
khả năng thu nhận thông tin có tính toàn cầu và các hành tinh trong đó có cả
trái đất và môi trờng xung quanh chúng. Hiện nay t liệu viễn thám vệ tinh



7

đợc sử dụng rộng rãi nhất là các vệ tinh khí tợng và vệ tinh tài nguyên. Vệ
tinh NOAA (National Oceanic and Atmospheric Administration) đợc phóng
lần đầu tiên lên quỹ đạo năm 1978 và đã cung cấp ảnh theo chế độ cập nhật
với độ phân giải không gian 1,1 km. Từ năm 1972 tới nay Hoa Kỳ đã phóng 5
vệ tinh tài nguyên. Hai vệ tinh đầu trang bị bộ cảm đa phổ 4 kênh MSS với độ
phân giải 80m. Vệ tinh Landsat3 đã đợc trang bị bổ xung thêm một kênh
hồng ngoại với độ phân giải 240m. Ngoài t liệu MSS vệ tinh Landsat 4 và 5
còn cung cấp thêm loại t liệu là TM với 7 kênh phổ, trong đó có 6 kênh độ
phân giải không gian là 30m ở dải sóng nhìn thấy và hồng ngoại gần, 1 kênh
độ phân giải không gian 120m cho dải sóng hồng ngoại nhiệt. Năm 1985 Pháp
cũng đã phóng vệ tinh SPOT với bộ cảm HRV có 3 kênh phổ độ phân giải
20m và một kênh toàn sắc có độ phân giải 10m. Gần đây, năm 1988 Nhật bản
phóng vệ tinh quan sát biển MOS-1, vệ tinh này trang bị bộ cảm MESSR có
độ phân giải không gian 50m. ấn Độ cũng đã phóng thành công vệ tinh tài
nguyên với bộ cảm có các thông số kỹ thuật tơng đơng với MSS. Đến tháng
8 năm 1996 cơ quan thiết kế kỹ thuật chính là NASDA của Nhật Bản đã
phóng vệ tinh ADEOS lên quỹ đạo với mục đích chủ yếu là giải quyết các vấn
đề về môi trờng khí hậu thế giới. Với mục đích này ADEOS mang nhiều loại
bộ cảm phục vụ nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó bộ cảm
AVNIR có mục đích rất quan trọng nhằm nghiên cứu trạng thái lớp phủ thực
vật[15], [23]. Mới đây Pháp đã phóng tiếp vệ tinh SPOT.4 vào tháng 3 năm
1998. Vệ tinh này khác với SPOT.3 là có thêm đầu chụp với tên Vegetation
gồm 4 kênh phổ độ phân giải 1km. Đến tháng 4 năm 1999 Mỹ đã phóng vệ
tinh LANDSAT.7 với đầu chụp có tên ETM gồm 7 kênh phổ giống
LANDSAT.TM và 1 kênh toàn sắc độ phân giải 15mét.
Trong vùng sóng dài của sóng điện từ, các hệ thống siêu cao tần chủ
động radar đã đợc sử dụng ngay từ đầu thế kỷ 20 cho việc theo dõi và phát
hiện các vật thể chuyển động và nghiên cứu tầng ion. Ngày nay sự ứng dụng



8

của nó đã trở nên rất đa dạng và phong phú trong lĩnh vực thăm dò tài nguyên.
Ngời ta đã sử dụng viễn thám radar để nghiên cứu đại dơng, khí quyển, các
cấu trúc trên bề mặt và gần bề mặt của vỏ trái đất. Gần đây viễn thám radar
chủ động càng phát triển mạnh mẽ có khả năng nghiên cứu xác định đợc sinh
khối của thực vật. Vì vậy các ứng dụng của viễn thám radar chủ động rất đa
dạng, phong phú và có nhiều triển vọng.
Nói chung, sự ra đời và phát triển của khoa học kỹ thuật viễn thám luôn
gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển của viễn thám trong Lâm nghiệp. Dới
đây là tóm tắt một số các công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế giới và
trong nớc.
2.1.1. Trên thế giới
Mặc dầu bức ảnh hàng không đầu tiên đợc chụp bằng kinh khí cầu do
một ngời Pháp có tên Laussedat chụp từ năm 1858, nhng mãi đến tháng 9
năm 1887 mới có một kỹ s Lâm nghiệp ngời Đức thử nghiệm đoán đọc cây
rừng trên ảnh hàng không[11]. Theo GS.TS Vũ Tiến Hinh, TS.Phạm Ngọc
Giao thì Spurr.S đã chia lịch sử viễn thám trong Lâm nghiệp trên thế giới
thành ba giai đoạn chính [31], nh sau:
"- Giai đoạn một: Từ cuối thế kỷ thứ 19 đến trớc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, đánh dấu bằng sự ra đời ảnh hàng không, kính lập thể và những
thử nghiệm lẻ tẻ ban đầu về ứng dụng của chúng trong Lâm nghiệp. Thí dụ
một số thí nghiệm của Rudolf Kobsa và Ferdinand Wang (áo1892),
Hugershoff.R (Đức-1911), Hans Dock (áo-1913).
- Giai đoạn hai: Từ chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến cuối chiến
tranh thế giới lần thứ hai. Giai đoạn này đã ghi nhận thành công của một số
tác giả ở một số nớc: Xây dựng bản đồ rừng từ ảnh hàng không ở vùng
Maurice thuộc Canada, bản đồ thực vật rừng ở Anh(1924), điều tra trữ lợng



9

rừng từ ảnh hàng không ở Mỹ(1940). Thí nghiệm các phơng pháp đo tán, đo
chiều cao trên ảnh của Seely, Hugershoff Tuy nhiên giai đoạn này vẫn cha
xây dựng hoàn chỉnh hệ thống lý luận cũng nh các phơng pháp đoán đọc
ảnh hàng không.
- Giai đoạn ba: Từ chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay: Cùng với sự
phát triển về khoa học và kỹ thuật, việc nghiên cứu ứng dụng viễn thám ngày
càng phát triển rộng rãi ở nhiều nớc. Kỹ thuật viễn thám phát triển theo chiều
hớng ngày càng phong phú, tinh vi, chính xác và cập nhật hơn với hai hệ
thống chính là Interkosmos và Landsat. Song song với hai hệ thống trên
là hệ thống các trạm thu và xử lý thông tin có ở nhiều nớc trên thế giới nh
Canada, Brasin, ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc Gần đây hệ thống vệ tinh và
ảnh Spot, ảnh ADEOS đã nâng cao hơn nữa khả năng của kỹ thuật viễn thám
ứng dụng trong Lâm nghiệp".
Song song với sự cải tiến về thiết bị bay chụp và tính năng thông tin,
các kỹ thuật xử lý thông tin cũng không ngừng đạt đợc những tiến bộ về mặt
phơng pháp. Từ những kỹ thuật xử lý khai thác thông tin dựa trên nguyên tắc
quang cơ và nhận biết bằng mắt, đến xử lý tự động theo nguyên tắc xử lý số.
Ngày nay kỹ thuật xử lý số ảnh viễn thám có khả năng liên kết với hệ thông
tin địa lý nên rất thuận lợi trong việc khai thác thông tin tạo ra các tờ bản đồ
chuyên đề thứ cấp mang những thông tin theo ý muốn. Đặc biệt là khả năng
lu trữ kết quả phân loại rất đơn giản. Đây là khả năng mà những phơng
pháp truyền thống không thể làm đợc.
Phơng pháp xử lý ảnh số (Digital image processing) đã đợc nghiên
cứu và ứng dụng khá phổ biến ngay từ những năm 1970 ở nhiều nớc tiên tiến
trên thế giới nh: Mỹ, Canada, Thuỵ Điển, Pháp, Nhật Bản, Bỉ Sau đó
nhanh chóng phổ cập tại các nớc trong khu vực châu á nh: ấn Độ, Trung
Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philipine, Malaysia[11] Tại các quốc gia này,



10

xử lý ảnh số đã đợc ứng dụng khá rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau
nh: Lâm nghiệp, Nông nghiệp, Địa chất, Phát triển đô thị
Trong Lâm nghiệp, bằng phơng pháp này, hàng loạt các loại bản đồ
khác nhau đợc thành lập nh: Bản đồ sinh thái thảm rừng, bản đồ che phủ
rừng Đồng thời sử dụng t liệu đa thời gian để theo dõi đánh giá biến động.
Cùng với hệ thống phơng pháp mới, các công cụ tơng ứng đã đợc thiết kế
và đa vào sử dụng rất có hiệu quả nh các máy tính có cấu hình mạnh. Bên
cạnh đó, các chơng trình xử lý ảnh chuyên dụng có các tính năng mạnh cũng
đợc phát triển ngày càng nhiều nh: Pericolor, Dragon, DID, PCI Một số
năm gần đây đã xuất hiện một số chơng trình phần mềm tổng hợp bao gồm
cả xử lý ảnh và làm bản đồ nh : Idrisi, ilwis, erdas Điều này chứng tỏ Viễn
thám và GIS đã đợc cấu thành trong một hệ thống chặt chẽ. Đồng thời hệ
thống xử lý, phân tích và quản lý số liệu cũng đã đợc xem xét và đã hình
thành trong những chức năng cơ bản của các phần mềm.
Trong hội nghị khoa học quốc tế bàn về vấn đề theo dõi lớp phủ
thực vật từ ngày 29 đến ngày 31 tháng 8 năm 1995 tại Chiba Nhật Bản có rất
nhiều báo cáo xung quanh việc sử dụng t liệu viễn thám trong nghiên cứu các
phơng pháp, kỹ thuật và công nghệ để phân loại các đối tợng, phân tích môi
trờng, nghiên cứu biến động và xây dựng bản đồ. Ví dụ: Việc sử dụng t liệu
vệ tinh MOS-1 với chỉ số thực vật KVI để nghiên cứu, kiểm tra phát hiện nạn
phá rừng ở Luzon Philippin[34], Sử dụng chỉ số thực vật trên t liệu vệ tinh kết
hợp với Hệ thông tin địa lý (GIS) để lập kế hoạch chống xói mòn đất và
nghiên cứu sự phục hồi rừng[40] Trong hội nghị này còn đề cập đến nhiều
báo cáo đã sử dụng t liệu viễn thám đa thời gian để nghiên cứu sự biến động
thực vật và diện tích mặt nớc hồ[42], nghiên cứu biến động của đồng cỏ[64],
xây dựng bản đồ sản lợng và bản đồ cây trồng nông nghiệp[36].



11

Tại hội nghị viễn thám châu á lần thứ 18 đợc tổ chức tại
Kualalumpur-Malaysia từ ngày 20 đến ngày 24 tháng 10 năm 1997 cũng có
nhiều báo cáo liên quan đến vấn đề ứng dụng khoa học viễn thám trong Lâm
nghiệp nh: Xây dựng mô hình theo dõi, kiểm tra, đánh giá và làm bản đồ mật
độ thảm rừng, trên cơ sở ứng dụng chỉ số thực vật cùng với các loại chỉ số
khác, t liệu sử dụng là Landsat TM [50]. Cũng trong hội nghị này có báo cáo
khoa học nghiên cứu phát hiện biến động rừng bởi kỹ thuật viễn thám[50], t
liệu sử dụng là các band 3,4,5 TM tại các thời điểm 1982, 1988 và 1993 ở
Thái Lan. Trong đó, sử dụng phơng pháp giải đoán bằng mắt trên ảnh tổ hợp
màu tỷ lệ 1/50.000 đợc chụp ngày 20/2/1988 và trên ảnh tổ hợp màu tỷ lệ
1/250.000 cho ảnh 1993, chụp ngày 01/01/1993, còn t liệu năm 1982 đợc
lấy từ bản đồ rừng hiện hành tỷ lệ 1/250.000 của năm 1982 Tiến hành số
hoá kết quả giải đoán ảnh năm 1988, 1993 và bản đồ rừng hiện hành năm
1982, rồi đa vào quản lý ở chơng trình SPAN GIS để đánh giá mức độ biến
động qua các giai đoạn. Kết quả nghiên cứu này đợc dựa trên một dãy cơ sở
số liệu không đồng bộ về tỷ lệ và chủng loại, đồng thời tỷ lệ ảnh quá nhỏ cho
việc giải đoán bằng mắt nên kết quả đánh giá biến động cha đủ sức thuyết
phục, nhng ở đây đã có sự kết hợp giữa kỹ thuật viễn thám với hệ thông tin
địa lý để tạo ra bản đồ biến động làm sinh động thêm kết quả nghiên cứu
Hội nghị Viễn thám Châu á lần thứ 19 tổ chức tại Manila-Philippines
từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 11 năm 1998 [45], và lần thứ 20 tổ chức tại
Hong Kong từ ngày 22 đến ngày 25 tháng 11 năm 1999 [46], cũng có nhiều
báo cáo về sử dụng ảnh vệ tinh vào xây dựng bản đồ Lâm nghiệp, theo dõi
biến động rừng của các nớc nh: Nhật Bản, Malaysia, Philippin, Thái
Lan Song về phơng pháp vẫn cha có gì thay đổi đáng kể so với các báo cáo
tại Hội nghị Viễn thám Châu á lần thứ 18.




12

2.1.2. ở Việt Nam:
ảnh vệ tinh lần đầu tiên đợc sử dụng ở nớc ta là t liệu
METEOR, NOAA, SOYUZ vào đầu những năm 70 trong lĩnh vực khí tợng.
Đến cuối những năm 70 t liệu vệ tinh tài nguyên nh LANDSAT,
SPOT cũng đợc sử dụng trong lĩnh vực Địa chất và Lâm nghiệp. Gần đây
các t liệu vệ tinh ADEOS, MOS_1 của Nhật Bản cũng lần lợt đợc đa vào
Việt Nam để xây dựng bản đồ, nghiên cứu về môi trờng và nghiên cứu theo
dõi biến động[15].
Ngày nay công nghệ tin học đang phát triển nh vũ bão, nó thâm
nhập vào hầu hết các ngành kinh tế quốc dân và các ngành khoa học có liên
quan đến điều tra, xây dựng cơ bản và quản lý bảo vệ tài nguyên môi trờng.
Chính nhờ công nghệ thông tin mà kỹ thuật viễn thám cũng đợc nâng lên
một mức cơ bản về chất. Bởi lẽ trớc đây việc khai thác các thông tin trên ảnh
viễn thám chủ yếu sử dụng phơng pháp giải đoán bằng mắt, thì ngày nay việc
xử lý này có thể đợc tiến hành tự động trên máy tính với tốc độ và độ chính
xác cao hơn nhiều. Bằng các phần mềm xử lý ảnh chuyên dụng kết hợp với hệ
thông tin địa lý có thể khai thác các t liệu viễn thám một cách hữu hiệu hơn,
có khả năng chồng xếp tạo ra các bản đồ thứ cấp mà bằng phơng pháp truyền
thống trớc đây không thể làm đợc.
Hiện nay tại các viện nghiên cứu, các trờng đại học, việc ứng dụng
công nghệ tin học để khai thác các thông tin trên t liệu viễn thám bằng
phơng pháp xử lý số trong thành lập bản đồ chuyên đề đã trở lên phổ biến.
Tại Viện Điều tra Quy hoạch rừng ngời ta đã sử dụng chơng trình ILWIS,
ENVI 3.5, ERDAS 8.5 để thành lập bản đồ hiện trạng rừng. Phòng viễn thám
thuộc Viện Địa lý đã sử dụng phần mềm xử lý ảnh WINASEAN để thành lập
bản đồ hiện trạng lớp phủ (Land cover) bằng phơng pháp xử lý số vào đầu
những năm 1990.



13

Năm 1996, luận án phó tiến sĩ khoa học địa lý của nghiên cứu sinh Trần
Văn Thụy[50] với đề tài: ứng dụng phơng pháp viễn thám để thành lập bản
đồ thảm thực vật tỉnh Thanh Hoá, tỷ lệ 1/200.000. ở đây tác giả cũng chỉ sử
dụng phơng pháp giải đoán bằng mắt trên ảnh tổ hợp màu của t liêụ vệ tinh
Landsat TM, KFA-1000, Landsat MSS, KT-200 và ảnh máy bay đen trắng để
thành lập bản đồ thảm thực vật tỉnh Thanh Hoá.
Cũng trong năm 1996, Phạm Văn Cự đã báo cáo Luận án phó tiến sĩ
khoa học Địa lý-Địa chất, với đề tài Xây dựng bản đồ địa mạo một vùng
đồng bằng trên cơ sở phối hợp hệ xử lý ảnh số và hệ thông tin địa lý [9].
Tại hội thảo ứng dụng viễn thám trong quản lý môi trờng Việt Nam
vào ngày 20 tháng 9 năm 1999 tại Hà Nội đã có hàng loạt các báo cáo khoa
học sử dụng phơng pháp viễn thám kết hợp với hệ thông tin địa lý để theo dõi
đờng bờ vùng ven biển Bắc trung bộ[33], Để nghiên cứu hiện trạng và biến
động môi trờng[22], đánh giá biến động lớp phủ và sử dụng đất[32], quản lý
môi trờng vùng rừng ngập mặn[8] Đồng thời trong hội thảo này đã có một
số tác giả sử dụng t liệu Landsat TM đa thời gian cùng với phơng pháp xử
lý số kết hợp với giải đoán bằng mắt trên màn hình để nghiên cứu, đánh giá
biến động diện tích rừng trên 3 khu vực: Lai Châu(1991-1995), Nghệ An(1989
- 1995) và Lâm Đồng(1990 - 1996) [51].
Nói chung Các công trình nghiên cứu trong nớc đã nêu ở trên có nhiều
báo cáo đề cập đến việc ứng dụng phơng pháp viễn thám trong phân loại
thảm thực vật và nghiên cứu biến động diện tích rừng. Nhng chủ yếu vẫn sử
dụng phơng pháp giải đoán bằng mắt là chính, hoặc kết hợp giữa giải đoán
bằng mắt với giải đoán số, thang phân loại thờng không phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn Lâm nghiệp mà chủ yếu kết quả nghiên cứu đợc sử dụng cho
vấn đề nghiên cứu về môi trờng. Vì vậy chúng tôi xin điểm qua quá trình
cũng nh kết quả ứng dụng viễn thám trong lâm nghiệp ở nớc ta nh sau:



14

Việc ứng dụng viễn thám trong Lâm nghiệp ở Việt Nam có thể nói bắt
đầu từ năm 1958 đã sử dụng ảnh máy bay đen trắng toàn sắc tỷ lệ 1/30.000 để
phục vụ điều tra rừng gỗ trụ mỏ khu Đông Bắc. Từ năm 1970 đến năm 1975
ảnh máy bay đã đợc dùng rộng rãi để xây dựng các bản đồ hiện trạng, bản đồ
mạng lới vận xuất vận chuyển cho nhiều vùng thuộc miền Bắc[31]. Sau năm
1975 kỹ thuật này đợc dùng phổ biến trong điều tra rừng cả nớc. Về ứng
dụng ảnh vệ tinh trong lâm nghiệp đã thử nghiệm từ những năm 1976 với ảnh
Landsat MSS và đến năm 1979 chính thức bắt tay vào xây dựng bản đồ thảm
rừng từ ảnh vệ tinh cho cả nớc ở tỷ lệ 1/1.000.000. Từ năm 1981 trở lại đây
lần lợt các t liệu ảnh máy bay đa phổ MKF-6, ảnh LandsatIII, Landsat TM,
KATE-140, Spot đã đợc đa vào sử dụng để nghiên cứu diến biến tài nguyên
rừng và xây dựng các bản đồ rừng cho các địa phơng trong tập ATLAS
quốc gia [31]. Kết quả của công tác xây dựng bản đồ rừng trên cơ sở viễn
thám đã đợc ứng dụng trong suốt 20 năm qua cho nhiều chơng trình, dự án
khác nhau trong nớc cũng nh hợp tác quốc tế nh sau [7, tr.22], [30, tr.5]:
Điều tra tài nguyên rừng toàn quốc (1979 1982) Dự án VIE 79/014
do FAO tài trợ.
Chơng trình quy hoạch Tây nguyên (1982-1983).
Điều tra vùng nguyên liệu giấy (1983-1985) Chơng trình phát triển
Lâm nghiệp SIDA.
Nghiên cứu biến động rừng ngập mặn Cà Mau (1985).
Dự án về thành lập bản đồ sử dụng đất đầu nguồn sông Mê công (1986-
1987) UB Mêkông.
Đề án thành lập bản đồ sử dụng đất toàn quốc (1991-1993) Viện
KHVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét