Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014

Thực trạng cổ phần hoá- Những kết quả tích cực và những khó khăn cần tháo gỡ

1. Tình hình hoạt động của các DNNN tại Việt Nam hiện nay:
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị tr-
ờng định hớng XHCN ở nớc ta hiện nay, khu vực Kinh tế Nhà nớc phải giữ vai
trò chủ đạo nhằm chi phối nền kinh tế quốc dân cũng nh giúp đỡ các thành phần
kinh tế khác. Song trên thực tế, hiệu quả hoạt động của khu vực Kinh tế Nhà n-
ớc nói chung và hệ thống DNNN nói riêng còn tồn tại rất nhiều yếu kém.
Trên địa bàn cả nớc hiện nay, chúng ta có khoảng 5800 DNNN nắm giữ
88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhng hiệu quả kinh
doanh rất thấp. Chỉ có trên 40% DNNN là hoạt động có hiệu quả, trong đó thực
sự làm ăn có lãi và lâu dài chỉ chiếm dới 30%. Trên thực tế, DNNN nộp ngân
sách chiếm 80-85% tổng doanh thu, nhng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián
thu thì DNNN chỉ đóng góp đợc trên 30% ngân sách Nhà nớc. Đặc biệt nếu tính
đủ chi phí và TSCĐ, đất tính theo giá thị trờng thì các DNNN hoàn toàn không
tạo ra đợc tích luỹ.
Đánh giá thực lực các DNNN trên 3 mặt: vốn- công nghệ-trình độ quản lý,
có thể thấy:
Vốn: Các doanh nghiệp luôn trong trạng thái đói vốn. Tình trạng doanh
nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện. Tình trạng
doanh nghiệp không có vốn và không đủ khả năng huy động vốn để đổi mới
công nghệ đợc coi là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp kém,
thất thoát vốn của Nhà nớc ngày càng trầm trọng. Năm 1998 chỉ tính riêng số
nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các DNNN đã lên đến 5.005 tỷ đồng . Theo Tổng
cục Quản lý vốn và tài sản Nhà nớc tại doanh nghiệp , trong số gần 5800
DNNN, chỉ 40,4% đợc đánh giá là hoạt động có hiệu quả (bảo toàn đợc vốn, trả
đợc nợ, nộp đủ thuế, trả lơng cho ngời lao động và có lãi) ; 44% số doanh
nghiệp hoạt động cha có hiệu quả, khó khăn tạm thời ; còn 15,6% số doanh
nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tổng cộng, có tới trên 59,6% DNNN hoạt
động kém hiệu quả.
Công nghệ: Công nghệ của các DNNN lạc hậu so với trình độ chung của
khu vực và của thế giới (thờng từ 2-3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu tới 5-
6 thế hệ), 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50-60 và chủ yếu do
Liên Xô cũ và các nớc Đông Âu cung cấp. Hiện nay có đến 54,3% DNNN trung
ơng và 74% DNNN địa phơng còn sản xuất ở trình độ thủ công, hiệu quả sử
dụng trang thiết bị bình quân dới 50% công suất. Đó chính là nguyên nhân làm
cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trờng nội địa cũng nh
quốc tế hết sức thấp kém. Điều này thực sự là một nguy cơ đối với các doanh
nghiệp Nhà nớc và với nền kinh tế trong quá trình hội nhập vào đời sống kinh tế
khu vực và thế giới.
Trình độ, năng lực và bản lĩnh quản lý còn thấp so với yêu cầu. Ta thấy
rằng, ở các doanh nghiệp Nhà nớc, quyền sở hữu không gắn với quyền quản lý
vốn và tài sản. Mặt khác, do những nguyên nhân lịch sử, do ảnh hởng của cơ
5
chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nớc có số
lợng lao động lớn, cơ cấu lao động bất hợp lý, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu. Bên cạnh trách nhiệm về kinh tế, mối doanh
nghiệp còn phải đảm trách nhiều chức năng xã hội nữa.
Từ tình hình trên, có thể thấy khu vực kinh tế Nhà nớc không phải là điểm
sáng nh chúng ta mong đợi, đặc biệt nó vẫn cha thực sự thể hiện tốt vai trò chủ
đạo vủa mình. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có một loạt những giải
pháp tiến hành đồng bộ. Trong đó, CPH DNNN là một trong những biện pháp
đợc Đảng và Nhà nớc đặt lên vị trí then chốt, hàng đầu.
2. Sự cần thiết phải tiến hành CPH doanh nghiệp Nhà n ớc :
Xuất phát từ thực tế nêu trên, thực hiện CPH là một nhiệm vụ rất cần thiết
và quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, CPH sẽ giải quyết đ-
ợc các vấn đề sau:
Thứ nhất: Thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất và lực lợng sản xuất. CPH góp phần thực hiện chủ trơng đa dạng hoá các
hình thức sở hữu. Trớc đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công
hữu, thể hiện ở một số lợng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ
sản xuất này không phù hợp với lực lợng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu.
Vì vậy CPH sẽ giải quyết đợc mâu thuẫn này, giúp lực lợng sản xuất phát triển.
Thứ hai: Thực hiện CPH nhằm xã hội hoá lực lợng sản xuất, thu hút
thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện CPH , ngời lao động sẽ gắn bó , có
trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành ngời chủ thực sự của doanh nghiệp.
Ngoài ra, phơng thức quản lý đợc thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên năng động,
tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Thứ ba: Bên cạnh đó, CPH là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và
phát triển thị trờng chứng khoán, đa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và
trên thế giới.
Thứ t: Thực hiện CPH là một trong những giải pháp quan trọng nhằm
huy động các nguồn lực trong và ngoài nớc vào phát triển kinh tế. Với việc huy
động đợc các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất
kinh doanh, đầu t đổi mới công nghệ, nâng cao đợc khả năng cạnh tranh trên thị
trờng, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm
vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự
thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả
phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu: Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền
kinh tế trong quá trình đổi mới.
Nh vậy, đứng trớc thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN,
CPH với những u điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trơng
đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên
CHXH ở nớc ta.
6
Phần B: Thực trạng cổ phần hoá - Những kết quả ban đầu và những
khó khăn cần tháo gỡ:
I/ Tiến trình thực hiện cổ phần hoá trong những năm vừa qua:
1. Giai đoạn thí điểm (1992 - 1996):
Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng ( nay là Thủ tớng Chính phủ)
đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp
Nhà nớc thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tớng Chính phủ ban
hành tiếp Chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh
nghiệp Nhà nớc và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh
nghiệp Nhà nớc .
Quyết định số 202/CT đã chọn 7 doanh nghiệp Nhà nớc làm thí điểm,
đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực
thuộc TW chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công
ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84/TTg
(1992-1996) cả nớc chỉ CPH đợc 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 DN trung ơng và 2
DN địa phơng. Đó là các doanh nghiệp :
Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện
CPH : 1/7/1993.
Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện
CPH : 1/10/1993.
Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH:
1/10/1994
Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày
thực hiện CPH : 1/7/1995.
Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển
nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
2. Giai đoạn mở rộng (5/1996 - 6/1998):
Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thí điểm cổ phần hoá, ngày
7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh
nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ mục tiêu,
đối tợng thực hiện cổ phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị
doanh nghiệp, chế độ u đãi đối với doanh nghiệp và ngời lao động trong doanh
nghiệp chuyển thành công ty cổ phầnNhờ đó tốc độ CPH đã tăng lên rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 28/CP đợc ban hành đến hết tháng 5/1998 đã có 25
doanh nghiệp Nhà nớc chuyển thành công ty cổ phần. Nh vậy tính gộp từ năm
1992 đến tháng 5/1998 cả nớc đã có 30 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần
hoá với số vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng ( bình quân 9,6 tỷ đồng/công ty)
7
và gần 6000 lao động. Không chỉ tăng lên về số lợng, diện CPH cũng đã mở
rộng hơn, đã có 3 Bộ và 9 Tỉnh, Thành phố có doanh nghiệp CPH. Trong số các
doanh nghiệp đã CPH , có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên
theo Luật công ty. Những doanh nghiệp trớc khi cổ phần hoá gặp khó khăn, nh
xí nghiệp Mộc Hà nội, xí nghiệp Đóng tàu thuyền Bình Định, xí nghiệp Giày
Hiệp An, mặc dù không đợc Nhà nớc hỗ trợ vốn, nhng đã cố gắng khắc phục
khó khăn và phát triển sản xuất-kinh doanh liên tục hàng năm.
Để hỗ trợ cho công tác CPH , trong thời gian này, các cấp các ngành đã
triển khai việc củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo CPH ở địa
phơng và thành lập các ban chỉ đạo CPH Chính phủ, trung ơng Đảng, Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam.
3. Giai đoạn thực hiện theo Nghị định 44/CP đến nay:
Trong giai đoạn này, nhờ những chuyển biến thuận lợi về cơ sở pháp lý mà
nổi bật là sự ra đời của Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 và việc thành lập Ban
đổi mới quản lý doanh nghiệp TW, con số các doanh nghiệp CPH đã tăng
nhanh so với các thời kỳ trớc.
Sau hơn 2 năm thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nớc theo Nghị định số
44/CP, từ tháng 6/1998 đến hết tháng 8/2000 cả nớc đã cổ phần hoá 430
doanh nghiệp đa tổng số doanh nghiệp Nhà nớc đã thực hiện cổ phần hoá lên
460 doanh nghiệp.
Trong số những doanh nghiệp đã CPH , những doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực Công nghiệp và Xây dựng chiếm khoảng 44,2%; Dịch vụ thơng mại chiếm
39,2%; Giao thông vận tải chiếm 9,5%; Nông nghiệp chiếm 4,1% và thuỷ sản
chiếm 2%. Hầu hết các doanh nghiệp đã CPH đều tơng đối nhỏ, những công ty
có tổng số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm khoảng 12%, trong khi các doanh
nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng chiếm đến hơn 50%. Vốn trung bình của các
doanh nghiệp đã CPH chỉ vào khoảng 3,1 tỷ đồng. Đa số các doanh nghiệp thực
hiện CPH theo hình thức thứ 2 nghĩa là bán một phần giá trị vốn của Nhà nớc
nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tính tới thời điểm 31/12/1999, trong số các địa phơng thực hiện CPH , Hà
Nội là thành phố có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất, gồm 70 doanh
nghiệp trong tổng số 210 doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố thực hiện cổ
phần hoá, tiếp theo là TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hoá.
Các doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động có
hiệu quả cao hơn về nhiều mặt, kể cả những doanh nghiệp mới CPH. Một số
doanh nghiệp trớc CPH gặp nhiều khó khăn thì sau CPH các doanh nghiệp này
đã có những tiến bộ rõ rệt, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập cho ngời lao động.
Nh vậy, trên thực tế, Nghị định 44/CP đợc ban hành đã tạo ra một hành
lang pháp lý khá thông thoáng, khuyến khích cả doanh nghiệp và ngời lao động
tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc .
Tuy nhiên, tiến trình cổ phần hoá trong thời gian qua còn chậm so với yêu
cầu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nớc. Sáu tháng cuối năm 1998, kế hoạch đặt
ra là CPH 150 doanh nghiệp, thực hiện chỉ là 100 doanh nghiệp đợc CPH (đạt
8
66,6%). Năm 1999, kế hoạch đặt ra là CPH 450 doanh nghiệp, nhng chỉ thực
hiện đợc 250 doanh nghiệp (đạt 55,5%).
Để thực hiện nhanh và có hiệu quả công tác cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nớc , phải giải quyết nhiều vấn đề, từ nhận thức t tuởng, cơ chế chính sách
đến tổ chức thực hiện, từ doanh nghiệp đến các cơ quan quản lý Nhà nớc.
II/ Những kết quả ban đầu mà cổ phần hoá DNNN đem lại:
1. Hiệu quả của cổ phần hoá:
a) Đối với doanh nghiệp:
Nhìn chung, doanh nghiệp là đối tợng đợc lợi nhiều nhất từ chính sách cổ
phần hoá. Hầu hết các doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt
động có hiệu quả hơn trớc xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp
ngân sách, tích luỹ vốnNhiều doanh nghiệp đã thoát ra khỏi tình trạng nợ nần,
phá sản, khắc phục đợc những hạn chế do cơ chế quản lý cũ nh nạn tham
nhũng, lãng phí trong sản xuất, sự thiếu trách nhiệm trong lao động, quản lý trì
trệ, yếu kém
Kết quả hoạt động của 15 doanh nghiệp đã đợc CPH trớc năm 1998 là rất
khả quan. Những lợi ích mà CPH mang lại cho doanh nghiệp đợc thể hiện rất rõ
qua những con số sau:
Vốn tăng bình quân 45,0%/năm
Doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm
Lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm
Nộp ngân sách tăng bình quân 98,0%/năm
Chỗ làm việc tăng bình quân 46,8%/năm
Thu nhập ngời lao động tăng bình quân 20,0%/năm
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 74,6%/năm
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 14,1%/năm
Báo cáo hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã CPH có thời gian
hoạt động trên 1 năm cũng cho thấy những số liệu rất khả quan, cụ thể nh sau:
Doanh thu tăng bình quân gần 2 lần: Điển hình công ty cổ phần Cơ điện
lạnh năm 1999 đạt 178 tỷ đồng, gấp gần 4 lần so với trớc khi CPH ; công ty cổ
phần bông Bạch Tuyết năm 1999 đạt 86 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với trớc khi
CPH
Lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần, cổ tức bình quân đạt 1-2%/tháng.
Vốn tăng gần 2,5 lần (bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và thu hút thêm
vốn đầu t từ bên ngoài) : Nổi bật là công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu
Long An vốn tăng 5 lần; công ty cổ phần Việt Phong vốn tăng 2,4 lần
Ngoài những lợi ích kinh tế kể trên, khi CPH DNNN còn có thêm những
lợi ích khác góp phần tích cực vào việc năng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh:
9
Thứ nhất: Năng lực sx-kd của doanh nghiệp tăng lên nhờ đợc bổ sung
nguồn vốn lu động và đầu t đổi mới công nghệ. Về nguyên tắc, tất cả số tiền
bán cổ phiếu, sau khi trừ đi các chi phí sẽ đợc điều chuyển để bổ sung vốn, mở
rộng sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: Doanh nghiệp có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh.
Sự chuyển đổi này đã hạn chế thấp nhất những can thiệp thô bạo, phi kinh tế
của các cơ quan công quyền, hạn chế các chỉ đạo vốn có của một DNNN.
Thứ ba: Doanh nghiệp đã có đợc một cách quản lý mới mang tính dân
chủ. Với việc CPH , doanh nghiệp đã chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần,
cũng có nghĩa là xác định vai trò chủ nhân tập thể. Hội đồng quản trị sẽ thực sự
làm chủ công ty với động lực lợi nhuận, vì lợi ích của các cổ đông (trong đó có
chính mình), thay mặt các cổ đông và đợc các cổ đông bầu lên chứ không phải
ai khác.
b) Đối với Nhà nớc:
Lợi ích đầu tiên mà Nhà nớc thu đợc từ chính sách CPH là phần thuế thu
đợc từ các công ty cổ phần tăng hơn so với khi còn là DNNN, tất cả các CTCP
đều đóng thuế đầy đủ, năm sau cao hơn năm trớc từ 30-35%, nộp ngân sách
tăng bình quân 2 lần so với trớc khi CPH : cụ thể nh CTCP cơ điện lạnh tăng
gần 3 lần, CTCP sơn Bạch Tuyết tăng 2,7 lần
Theo số liệu của 17 công ty cổ phần, Nhà nớc đã thu đợc 377.244 triệu
đồng từ các nguồn sau:
Tiền thu về bán cổ phần: 30.207 triệu đồng
Phần lợi tức của Nhà nớc tại các CTCP: 6.905 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV: 522 triệu đồng
Về huy động vốn: Tại thời điểm CPH trớc 31/12/1999, 370 doanh nghiệp
CPH có giá trị phần vốn Nhà nớc là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện CPH đã thu
hút thêm 1.432 tỷ đồng, đồng thời Nhà nớc cũng đã thu lại đợc 714 tỷ đồng để
đầu t vào các DNNN và giải quyết một số chính sách cho ngời lao động trong
DNNN thực hiện CPH.
Phần vốn Nhà nớc tại các doanh nghiệp CPH khi xác định lại, nhìn chung
đều tăng từ 10-50% so với giá trị ghi trên sổ sách. Nh vậy, khi CPH vốn Nhà n-
ớc không bị mất đi, đợc bảo toàn mà còn tăng thêm.
Ngoài những lợi ích trên, từ kết quả cổ phần hoá, hàng năm Nhà nớc
không còn tốn một khoản ngân sách lớn để bù đắp cho các DNNN thua lỗ, cán
cân thu chi của Nhà nớc đợc cân bằng hơn. Hệ thống các cơ quan quản lý Nhà
nớc đợc hoàn chỉnh và gắn với mục tiêu của nền kinh tế. Chính cơ chế tạo
chuyên môn hoá dẫn đến sự thay đổi về trình độ quản lý đạt mức cao. Nhà nớc
có điều kiện quản lý nền kinh tế thông qua các chính sách vĩ mô.
Cổ phần hoá đã đặt cơ sở cho thị trờng vốn ra đời bằng việc ra mắt Uỷ ban
chứng khoán quốc gia và Trung tâm giao dịch chứng khoán vừa qua, làm cơ sở
để Nhà nớc kiểm soát lạm phát. Lợng tiền lu thông trong xã hội trong tơng lai
10
gần sẽ chuyển một phần vào thị trơng vốn, thực hiện tái đầu t trên diện rộng
hoặc tập trung vốn giải quyết các công trình trọng điểm của Nhà nớc.
c) Đối với ngời lao động:
Có thể nói, nhờ CPH mà ngời lao động đã trở thành ngời chủ thực sự của
doanh nghiệp xét theo cổ phần mà họ sở hữu. Qua CPH các DNNN, tất cả ngòi
lao động trong doanh nghiệp bằng các nguồn vốn tự có, quỹ phúc lợi của doanh
nghiệp đợc phân bổ và cả vốn riêng của cá nhân, đều có thể tham gia mua cổ
phần tại công ty, xí nghiệp đợc cổ phần hoá.
Với việc góp vốn này, ngời lao động , từ công nhân trực tiếp sản xuất đến
vị giám đốc, đều có thể trở thành ngời chủ thực sự đối với doanh nghiệp, đợc
tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào việc lập phơng hớng kế hoạch, chiến lợc
kinh doanh của doanh nghiệp với quyết tâm và ý chí chung là gặt hái đợc hiệu
quả cao nhất, tốt nhất.
Trong thực tế, các doanh nghiệp Nhà nớc đợc CPH bảo đảm việc làm và
thu nhập của ngời lao động ổn định và có chiều hớng tăng lên. Do mở rộng sản
xuất, số lao động ở các DN này tăng bình quân 12%. Thu nhập của ngời lao
động làm việc tai các công ty cổ phần tăng bình quân hằng năm gần 20% (cha
kể thu nhập từ cổ tức). Điển hình trong năm 1999, ngời lao động tại công ty cổ
phần đại lý liên hiệp vận chuyển có thu nhập 4 triệu đồng/ngời/tháng bằng gần
3 lần so với trớc khi CPH; công ty cổ phần Ong mật TP.HCM đạt 1,3 triệu
đồng/ngời/tháng bằng 2,6 lần so với trớc khi CPH
Việc đầu t vào các công ty cổ phần, nói chung ngời lao động đã thu đợc lợi
tức cao hơn gửi tiết kiệm và vốn của họ trong công ty tăng gấp 1,5-2 lần so với
lúc mới mua cổ phiếu. Do lãi cao đã bổ sung thêm vào vốn, đến nay giá trị cổ
phần ngời lao động sở hữu bình quân tăng gấp 2-3 lần, đặc biệt có những công
ty tăng tới 4-5 lần nh CTCP Cơ điện lạnh và CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển.
Là chủ nhân thực sự trong CTCP, ngòi lao động đã nâng cao tính chủ
động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp
phần làm hiệu quả hoạt động của DN ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết
thực cho bản thân mình, công ty, Nhà nớc và xã hội.
2. Đánh giá nguyên nhân:
Với những kết quả nêu trên, chúng ta có cơ sở để khẳng định chính sách
CPH một bộ phận DNNN là phù hợp và đúng đắn trong giai đoạn hiện nay. Cổ
phần hoá đã thực sự đem lại nhiều lợi ích cụ thể không chỉ cho doanh nghiệp
mà còn cho cả Nhà nớc và bản thân ngời lao động. Những thành công đó có thể
xuất phát từ những nguyên nhân sau.
a) Đảng và Nhà nớc đã nhận thức đợc vai trò và sự cần thiết phải tiến
hành cổ phần hoá một bộ phận DNNN:
Để khắc phục tình trạng khủng hoảng của nền kinh tế nớc ta giai đoạn
1980-1990, Đảng và Chính phủ đã có chủ trơng đổi mới kinh tế nhằm đa nền
11
kinh tế thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, nghèo nàn, lạc hậu. Một trong những giải
pháp đợc Đảng và Nhà nớc lựa chọn là CPH một bộ phận DNNN nhằm sắp xếp
lại các DNNN, nâng cao vị thế chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nớc. Đảng ta
đã mạnh dạn tiến hành thí điểm và sau gần 10 năm thực hiện đã thu đợc những
kết quả rất khả quan.
b) Đảng và Nhà nớc đã bớc đầu quan tâm, chỉ đạo tiến trình CPH:
Đảng và Nhà nớc ta đã dành rất nhiều quan tâm cho công tác cổ phần hoá,
thể hiện qua việc theo dõi sát sao tiến trình thực hiện, không ngừng đúc kết kinh
nghiệm và khắc phục hạn chế, ban hành kịp thời nhiều văn bản pháp quy hớng
dẫn, tạo điều kiện cho công tác CPH, gần đây nhất là nghị định 44/CP
(29/6/1998), các Quyết định 145/TTg(28/6/1999), 177/TTg(30/8/1999). Nội
dung của Nghị định 44/CP là một bớc tiến lớn so với các văn bản trớc đây, thể
hiện một cách nhìn mới của Đảng và Nhà nớc ta về vấn đề CPH. Nghị định 44
ra đời đã tạo một bớc phát triển mới trong tiến trình thực hiện CPH , hoàn thiện
và đẩy nhanh tốc độ CPH làm cho CPH đạt hiệu quả cao hơn.
c) Nội dung CPH là đúng đắn, mục tiêu CPH đặt ra là cụ thể, mang
tính khả thi; lợi ích mà CPH mang lại là cụ thể, khách quan và gắn
với bản thân doanh nghiệp và ngời lao động.
Có thể nói, CPH đã nh một luồng gió mới thổi sinh khí vào khu vực Kinh
tế Nhà nớc , mang lại sức sống cho khu vực kinh tế này, từ đó mang lại hiẹu quả
cho Nhà nớc, doanh nghiệp và ngời lao động.
Cổ phần hóa thực sự tạo động lực cho đầu t phát triển kinh tế. Thông qua
CPH thu hút đợc một lợng lớn nguồn vốn trong dân c, tạo tiền đề mở cửa cho
thị trờng vốn trong nớc, nâng cao hiệu quả đầu t phát triển sản xuất.
d) CPH đã thực sự nâng cao quyền làm chủ của ngời lao động trong
doanh nghiệp, gắn lợi ích của ngời lao động với lợi ích của doanh
nghiệp, từ đó thúc đẩy họ hăng say sản xuất, trách nhiệm với công
việc, góp phần nâng cao hiệu quả sx-kd.
e) Các nhà lãnh đạo DNNN và các CBCNV đã nhận thức đợc đợc lợi
ích và sự cần thiết cổ phần hoá.
III/ Những khó khăn cần đợc tháo gỡ:
1. Những hạn chế của công tác cổ phần hoá:
a) Về vấn đề tốc độ cổ phần hoá:
12
Kể từ thời điểm doanh nghiệp đầu tiên tiến hành CPH (7/1993), tiến độ
CPH không năm nào đạt chỉ tiêu kế hoạch ( năm 1993: 2 doanh nghiệp ; 1994:1
; 1995: 2 ; 1996: 5 ; 1997: 5) , năm 1998, chỉ tiêu là 150 doanh nghiệp đợc CPH
thì chỉ có 100 doanh nghiệp , năm 1999 số doanh nghiệp đợc CPH là 250 so với
kế hoạch là 450. Nh vậy, nếu hoàn thành đúng theo kế hoạch thì nay ta đã có
khoảng hơn 600 doanh nghiệp đợc CPH. Trên thực tế, đến 8/2000 ta mới CPH
đợc 460 doanh nghiệp. Tốc độ CPH nh vậy đã không đáp ứng đợc yêu cầu sắp
sếp lại doanh nghiệp Nhà nớc.
b) Khuôn khổ pháp lý cho cổ phần hóa còn quá nhiều bất cập:
Các quy định về chế độ với doanh nghiệp sau CPH vẫn cha rõ ràng. Các
quy định đợc sửa đổi và bổ sung thờng thì càng về sau càng có lợi, càng có
nhiều u đãi. Chính vì vậy, về mặt tâm lý, các doanh nghiệp không muốn triển
khai nhanh mà chờ đợi để đợc hởng u đãi nhiều hơn.
Các văn bản quy định về CPH đã đợc ban hành cũng có nhiều vấn đề cần
xem xét lại. Quy định về bán cổ phần u đãi cho ngời lao động cũng không đợc
cụ thể hóa, linh hoạt. Có nơi ngời lao động không có tiền mua cổ phần u đãi; lại
có nơi do vốn Nhà nớc ít, số lợng cổ phần bán ra hạn chế, không đủ cho nhu
cầu.
Cho đến nay, quá trình CPH còn cha có một phơng hớng chiến lợc rõ ràng.
Từ trớc đến nay, CPH đợc chủ yếu tiến hành trên cơ sở tự nguyện mà không có
quy định phải u tiên CPH đối với loại hình doanh nghiệp hay thành phần kinh tế
nào. Trên thực tế, Chính phủ dờng nh đi theo con đờng CPH các doanh nghiệp
nhỏ trớc, các doanh nghiệp lớn sau. Do đó, tỷ lệ các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm
một phần nhỏ trong số các doanh nghiệp đã đợc CPH .
Bên cạnh đó, nhiều địa phơng không thực sự quan tâm đến vấn đề CPH và
coi đó là nhiệm vụ của các cấp ban nghành cao hơn. Sự phân quyền, hớng dẫn
và phối hợp giữa địa phơng và TW cha thực sự thông suốt cũng là những nhân
tố góp phần kéo dài quá trình CPH.
c) Về vấn đề t tởng:
Nhiều doanh nghiệp (gồm cả lãnh đạo và ngời lao động) cũng nh nhiều
cấp quản lý vẫn ngại CPH do sợ mất đi nhiều quyền lợi. Có ngời lại nhận thức
sai về CPH cho rằng việc việc chuyển đổi hình thức sở hữu sẽ dẫn đến mất chế
độ, chệch hớng XHCNCó tình trạng phân biệt đối xử giữa các DNNN và các
DN đã CPH nhất là tại các tổ chức tín dụng ngân hàng. Việc tìm đối tác liên
doanh, liên kết ở các công ty cổ phần cũng gặp khó khăn. Doanh nghiệp Nhà n-
ớc vẫn đợc u đãi nhiều hơn. làm ăn thua lỗ vẫn đợc vay không phải trả lãi, bù lỗ
từ ngân sách Nhà nớc và một số u đãi khác. Tất cả đều tác động lớn tới tâm lý
của các doanh nghiệp chuẩn bị bớc vào CPH.
Mặt khác, nhiều giám đốc của các doanh nghiệp Nhà nớc sợ rằng CPH sẽ
làm mất đi quyền lực vốn có bấy lâu nay. T tởng bao cấp đã ăn sâu vào suy nghĩ
của nhiều doanh nghiệp nên cố tình trì hoãn CPH, lảng tránh nhiệm vụ mới.
13
d) Về công tác chỉ đạo cổ phần hoá:
Trong một thời gian dài, việc chỉ đạo, tổ chức điều hành CPH đợc tiến
hành một cách rời rạc bị động. Ban đổi mới DNNN không chủ động giao chỉ
tiêu và chỉ đạo sát sao việc thực hiện mà ngồi đợi các doanh nghiệp tự động
đăng ký. Bản thân Ban đổi mới DNNN cha hoạt động chuyên trách, đội ngũ quá
mỏng, cha đủ trình độ và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề phức tạp, lại cha
có đủ thẩm quyền chức năng để tổ chức hoạt động phối hợp làm cho các bớc
thủ tục thờng dây da kéo dài
e) Về vấn đề kỹ thuật trong việc xác định giá trị doanh nghiệp:
Nhiều chuyên gia cho rằng CPH ở Việt Nam là một quá trình rối rắm,
phức tạp và tốn thời gian, làm hao tổn các nguồn lực tài chính và làm giảm sút
sự kiên nhẫn của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam cha có một phơng pháp
đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế. Sự
phức tạp này còn gia tăng bởi những yếu tố đi kèm nh: việc xử lý nợ khó đòi,
thẩm định giá trị nhà xởng máy móc thiết bị và quyền sử dụng đất. Do đó việc
định giá tài sản doanh nghiệp thờng là khâu kéo dài nhất (khoảng trên 3 tháng).
Hiện nay, việc thiếu một phơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo
tiêu chuẩn quốc tế sẽ làm cho chúng ta khó khăn rất nhiều trong việc huy động
vốn từ các nhà đầu t nớc ngoài, một yếu tố không thể xem nhẹ trong xu hớng
hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay.
f) Một số vớng mắc đối với doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá:
Đối với các doanh nghiệp hiện nay, tình trạng chung là cha có đủ giấy tờ
pháp lý về quyền sở hữu TSCĐ nh nhà xởng, máy móc thiết bịViệc này có
nhiều nguyên nhân, trong đó có việc thỡng xuyên thay đổi của các luật, văn bản
dới luật, hoặc đơn giản là do hầu hết các DNNN đều qua nhiều đời giám đốc
nên không đủ biên bản bàn giaoNgoài ra còn có tình trạng nhiều doanh
nghiệp đi thuê nhà xởng, kho bãi của đơn vị khác, sau đó xây các công trình
kiến trúc lên hoặc cải tạo sửa chữa với số tiền không nhỏ gây khó khăn cho quá
trình CPH .
Ngoài ra, do một số doanh nghiệp cha nhận thức rõ tầm quan trọng và mục
tiêu của CPH, thiếu sự chặt chẽ trong phối hợp hoạt động của cấp uỷ, công
đoàn, ban giám đốc và CBCNV của doanh nghiệp. Do đó việc xây dựng phơng
án CPH chậm, dẫn đến việc triển khai thực hiện cũng bị chậm theo.
Mặt khác, mặc dù đợc sự hớng dẵn qua nhiều văn bản của Chính phủ nhng
phần lớn các doanh nghiệp cha hình dung đợc quy trình CPH, các thủ tục còn
quá mới mẻ đối với họ. Hơn thế nữa, một số cấp chức năng có thẩm quyền, lại
vô tình hay hữu ý, vẫn muốn thể hiện quyền lực của mình, nên các doanh
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét