LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh nhno&ptnt yên lạc, huyện yên lạc , tỉnh vĩnh phúc": http://123doc.vn/document/1041972-giai-phap-nang-cao-chat-luong-tin-dung-tai-chi-nhanh-nhno-ptnt-yen-lac-huyen-yen-lac-tinh-vinh-phuc.htm
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Năm 2006 là năm đánh dấu mốc son lịch sử với đất nước ta , đó là năm
chúng ta đã thực sự là thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại
thế giới WTO và Việt nam đã thành công tốt đẹp hội nghị các nhà lãnh đạo cấp
cao, các thành viên kinh tế OPEC 14 tại thủ đô Hà nội đã khẳng định được vị
thế của mình với bè bạn thế giới . Trải qua 20 năm đổi mới đất nước (1986-
2006) chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trên các mặt . Nghị quyết đại hội
Đảng lần thứ X xác định quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế ,với
nước ta gần 80% dân số sống ở nông thôn, hơn 68% lao động nông nghiệp sản
xuất hàng hoá chưa phát triển . Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm sâu sắc tới
vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, từng bước đổi mới chuyển dịch cơ
cấu , vừa đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của khu vực , vừa tạo điều kiện cho các
ngành kinh tế khác phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp, sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, đẩy mạnh các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ
sản xuất và nâng cao đời sống ở nông thôn. Đáp ứng được hội nhập và phát
triển kinh tế, nhiệm vụ của mọi ngành với chức năng hoạt động của mình.
Trong đó NHNo&PTNT Việt Nam là một trong những thành viên cung cấp tín
dụng chủ yếu cho đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn.Và trong mây nắm qua
thực sự NHNo&PTNT thực sự đã làm tốt nhiệm vụ của mình trong công cuộc
giúp phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng chưa an toàn và chất lượng chưa cao
đang là mối quan tâm không chỉ đối với các cấp lãnh đạo, các giới quản lý và
điều hành của hệ thống Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội.
Bởi vậy việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM
đạt hiệu quả cao nhất và phục vụ tốt nhất cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
đang là vấn đề bức xúc, có ý nghĩa quan trọng và quyết định cả về mặt thực tiễn
và lý luận hiện nay.
Với đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh
NHNo&PTNT Yên Lạc, Huyện Yên lạc , Tỉnh Vĩnh Phúc"qua đó em muốn
đưa ra một số giải pháp và kiến nghị góp phần giải quyết vấn đề bức xúc đó vào
công tác kinh doanh để có hiệu quả hơn .
-5-
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng của
NHTM, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng thực tế ở NHNo&PTNT Yên
Lạc, Huyện Yên lạc, Tỉnh Vĩnh phúc, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm góp
phần nâng cao chất lượng tín dụng tại địa bàn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn hoạt động tín dụng
tại chi nhánh NHNo&PTNT Yên Lạc, Huyện Yên lạc ,Tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Kết cấu đề tài gồm:
Nội dung của đề tài được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng về chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Yên Lạc , Huỵện Yên Lạc , Tỉnh Vĩnh phúc
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng tại
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Yên Lạc , Huyện Yên lạc ,
Tỉnh Vĩnh Phúc.
Để hoàn thành đề tài này em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của thầy
: Lê Đức Lữ và các cán bộ trong chi nhánh ngân hàng Yên Lạc .
Do thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài nghiên cứu trên rộng lớn và phức
tạp, bản thân còn nhiều hạn chế về trình độ và kinh nghiệm nên bản đề tài
không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các
thầy cô giáo để đề tài này của em được hoàn thiện hơn.
-6-
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1.Khái niệm về NHTM
Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu
dài. Ngay nửa đầu thế kỷ 16, ở Châu Âu đã ra đời một số ngân hàng đầu tiên mà
tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này, ngân hàng phát
triển ở trình độ thấp, hoạt động của ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ
tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động
của ngân hàng thương mại cũng được từng bước được củng cố và hoàn thiện,
chuyển hoá dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến nay chưa có một khái niệm
thống nhất về ngân hàng thương mại do các nhà kinh tế nhận thấy có những khó
khăn trong việc định nghĩa “ngân hàng”, bởi quan niệm về ngân hàng thay đổi
trong không gian (tập quán và phong tục của mỗi nước) và trong thời gian (theo
đà tiến triển kinh tế-xã hội).
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học trên thế giới thì NHTM là một
doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
Theo Peter S.Rose: ''Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dich vụ tài chính da dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm
và các dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.''.
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày
12/12/1997 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính
chất và hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và
các loại hình ngân hàng khác”.
1.1.2. Các hình thức tín dụng của NHTM
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một
số tiêu thức nhất định. Phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp cho nhà
quản trị lập một quy trình tín dụng thích hợp, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Trong
quá trình phân loại có thể dùng nhiều tiêu thức để phân loại, song thực tế các
nhà kinh tế học thường phân loại tín dụng theo các tiêu thức sau đây:
1.1.2.1.Theo mục đích sử dụng tiền vay và của người vay
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Tín dụng đối với người sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại cấp tín
dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hoá.
-7-
Nguồn trả nợ của hoạt động này là kết quả hoạt động kinh doanh. Vì vậy Ngân
hàng cần phải có đầy đủ các thông tin cần thiết về khách hàng của mình, về
phương án sản xuất kinh doanh của họ. Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cho
các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại
hàng hoá lâu bền như máy giặt, điều hoà, tủ lạnh. ở đây, nguồn trả nợ là thu
nhập trong tương lai của người vay.
Với cách phân loại này, ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể để
đảm bảo ngân hàng có đủ tiền để cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ
rủi ro và mức lãi xuất được đặt ra cho từng loại.
1.1.2.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay của người vay
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Tín dụng có thời hạn: Là loại tín dụng mà thời điểm trả nợ được xác
định cụ thể. Đó có thể là một năm, hai năm,
+Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được
sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và
phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại tín dụng này, ít có rủi
ro cho ngân hàng vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra
thì ngân hàng có thể dự tính được.
+Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm
năm và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn
nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân hàng có khả năng
dự đoán được những biến động có thể xảy ra.
+Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử
dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các
công trình thuộc cơ sở hạ tầng( đường xá, bến cảng, sân bay ), cải tiến và mở
rộng sản xuất với quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì
trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra không lường trước được.
- Tín dụng không thời hạn: Là loại tín dụng mà thời hạn hoàn trả tiền vay
không được xác định khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là điều kiện về việc
thu hồi khoản tiền cho vay của ngân hàng hoặc việc trả nợ của người vay. Ví dụ
ngân hàng không thu gối theo thời hạn nhất định mà chỉ thu lãi; người vay sẽ trả
nợ cho Ngân hàng khi nhu cầu vay thêm không cần thiết nữa do quy mô sản
xuất giảm hoặc doanh nghiệp lấy nguồn khác để tự bổ xung; ngân hàng muốn
thu hồi gốc phải báo trước cho người vay. Như vậy khi quy mô sản xuất của
doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ đi vay không thời hạn (vì hết tiền đầu tư
cho chu kỳ sản xuất kinh doanh này lại cần tiếp).
1.1.2.3. Theo điều kiện đảm bảo
-8-
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như
thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng nắm giữ tài
sản của người vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện được các
nghĩa vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng
đối với những khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng. Mặc dù là có tài
sản đảm bảo nhưng hình thức tín dụng này vẫn có độ rủi ro cao vì tài sản có thể
bị mất giá hay người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp,
cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa
vào uy tín của bản thân khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh giá hiệu
quả sử dụng tiền vay của người vay, khách hàng không được phép giao dịch với
bất kỳ ngân hàng nào khác. Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đây là một
loại tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả năng
trả nợ rất cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần đảm bảo.
1.1.2.4. Theo đồng tiền được sử dụng trong cho vay
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
- Cho vay bằng đồng bản tệ: Là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho
khách hàng bằng VND. Nước ta quy định, cho vay để thanh toán trong nước thì
chỉ được vay bằng VND.
- Cho vay bằng ngoại tệ: Là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho
khách hàng bằng đồng ngoại tệ. Nước ta quy định, cho vay bằng ngoại tệ
chỉphục vụ cho nhập khẩu; đối với khách hàng thu mua hàng xuất khẩu thì Ngân
hàng cho vay bằng ngoại tệ nhưng phải bán luôn cho ngân hàng và dùng VND
đi mua hàng xuất khẩu.
1.1.2.5. Theo đối tượng tín dụng
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản lưu động: Là loại tín dụng được
sử dụng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại tín dụng có mức
độ rủi ro thấp vì vốn lưu động của doanh nghiệp là vốn luân chuyển trong chu
kỳ sản xuất kinh doanh nên Ngân hàng có thể theo dõi thường xuyên và nếu có
biến động xảy ra thì kịp thời thu hồi vốn.
- Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản cố định: Là loại tín dụng được sử
dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng
sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và các công trình mới. Hình thức tín dụng này
thường có mức độ rủi ro cao vì khả năng thu hồi vốn chậm hơn.
1.1.2.6. Ngoài ra tín dụng còn được phân chia theo các cách sau
Theo xuất xứ của tín dụng có:
-9-
- Tín dụng gián tiếp.
- Tín dụng trực tiếp.
Theo đối tượng được cho vay có:
- Tín dụng cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác vay.
- Tín dụng cho nhà nước vay.
- Tín dụng cho người tiêu dùng vay.
Dựa vào các cách phân loại trên, các nhà phân tích sẽ biết được kết cấu
tín dụng của từng loại tín dụng (là tỷ trọng của từng loaị tín dụng trên tổng dư
nợ). Từ kết cấu tín dụng đó, so sánh với kết cấu nguồn huy động, so với nhu cầu
của nền kinh tế, sẽ giúp cho các nhà phân tích đánh giá, xem xét kết cấutín dụng
đã phù hợp với ngân hàng chưa. Từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp.
1.2 Chất lượng tín dụng của NHTM
1.2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng của NHTM
Trong bất cứ nền kinh tế cạnh tranh nào, doanh nghiệp muốn đứng vững
trong hoạt động kinh doanh thì việc cải thiện chất lượng là điều tất yếu. Trong
ba yếu tố: chất lượng, giá cả và lượng hàng bán thì chất lượng tín dụng là yếu tố
quan trọng nhất, vì chất lượng được nâng lên, giá thành sẽ hạ, đảm bảo thỏa
mãn cho khách hàng cả về chất lượng, giá cả, tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm
lĩnh thị trường. Các nhà kinh tế nói đến chất lượng bằng nhiều cách: chất lượng
là “sự phù hợp với mục đích hoặc sự sử dụng”, là “ một trình độ dự kiến trước về
độ đồng đều và độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường”; hoặc theo
Hiệp hội tiêu chuẩn hóa Pháp (tiêu chuẩn NFX50-104) thì “ chất lượng là năng
lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu của
người sử dụng”. Với cách đề cập như vậy, có thể hiểu: Chất lượng tín dụng là sự
đáp ứng yêu cầu của khách hàng( người gửi tiền và người đi vay tiền), phù hợp
với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng. Chất lượng tín dụng được thể hiện:
- Đối với ngân hàng thương mại: phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng
phải phù hợp với thực lực bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh
trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
- Đối với khách hàng: tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử
dụng vốn của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận
tiện thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế- xã hội: tín dụng phục vụ sản xuất và
lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công việc làm, khai thác khả năng tiềm
tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
-10-
Qua đó ta có thể rút ra:
• Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể ( thể hiện qua các
chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn…) vừa trừu
tượng (thể hiện khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế…). Chất
lượng tín dụng chịuởng bởi các nhân tố chủ quan ( khả năng quản lý, trình độ
cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ…) và khách quan ( sự thay đổi của môi
trường bên ngoài, sự cố ý của khách hàng…). Khuynh hướng phát triển của nền
kinh tế, sự thay đổi của giá cả thị trường cũng như môi trường pháp lý đều ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng.
• Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ
thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức
mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
• Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được
khách hàng tốt; thủ tục đơn giản, thuận tiện; mức độ an toàn của vốn tín dụng;
chi phí tổng thể về lãi suất, chi phí nghiệp vụ…
• Chất lượng tín dụng không tư nhiên mà có, nó là kết quả của một
quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức với nhau vì một
mục đích chung.
1.2.2 Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng tín dụng của NHTM
1.3.2.1. Chỉ tiêu dư nợ tín dụng.
Chỉ tiêu này được tính trên tổng dư nợ của ngân hàng:
Dư nợ tín dụng ngắn hạn
Tổng dư nợ tín dụng
Dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ dư nợ tín dụng trong tổng dư nợ tín dụng của
ngân hàng. Nếu tỷ lệ cao chứng tỏ ngân hàng đang cho vay nhiều, còn nếu tỷ lệ
này thấp chứng tỏ ngân hàng đang cho vay trung hạn nhiều hơn. Tùy từng
trường hợp, từng thời kỳ, từng hoàn cảnh cụ thể của ngân hàng mà tỷ lệ này
được xem thấp hay cao.
-11-
Theo qui định của ngân hàng Nhà nước hiện tại thì dư nợ tối đa của một
khách hàng không vượt quá 15% vốn chủ sở hữu của Ngân hàng, qui định này
nhằm đảm bảo tính an toàn trong hoạt động của Ngân hàng.
Mức dư nợ trung và dài hạn cho chúng ta biết được hiện tại phần vốn mà
ngân hàng cho vay chưa thu về. Cho biết cơ cấu cho vay của Ngân hàng, nếu tỷ
lệ này quá cao cần phải điều chỉnh phù hợp với năng lực của Ngân hàng. Phản
ánh khẳ năng đáp ứng các nhu cầu các nguồn vốn của Ngân hàng đối với nhu
cầu sử dụng trong nền kinh tế.
1.3.2.2. Cơ cấu vốn đầu tư
Một trong các chỉ tiêu trong khi xem xét và đánh giá chất lượng tín dụng
của các ngân hàng thương mại là chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư. Việc phân tích cơ
cấu vốn đầu tư chính là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với
khả năng đáp ứng của bản thân ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh
tế chưa. Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại có thể quyết định qui mô, tỷ
trọng đàu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn cho
vay vừa có thể thu lợi nhuận cao nhất.
1.3.2.3.Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Đây là một chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính toán
hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín
dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giải quyết hợp lý giữa ba lợi
ích: Nhà nước, khách hàng và ngân hàng.
Công thức tính vòng quay vốn tín dụng được xác định như sau:
Vòng quay Doanh số thu nợ
của vốn =
tín dụng Dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng (thường là một
năm). Hệ số này càng tăng phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng
càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
-12-
1.3.2.4.Chỉ tiêu lợi nhuận tín dụng
Tỷ lệ đầu tiên chúng ta xét là tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng trên tổng dư nợ
tín dụng :
Lợi nhuận từ tín dụng
Tổng dư nợ tín dụng
Qua chỉ tiêu này ta thấy được khả năng sinh lời của tín dụng. Một đồng
tín dụng sinh ra được khoản lợi nhuận càng lớn chứng tỏ chất lượng tín dụng
của khoản vay càng cao.
Từ lợi nhuận tín dụng cũng cho thấy vai trò của tín dụng trung và dài hạn
trong hoạt động của Ngân hàng:
Lợi nhuận thực tế từ cho vay
Lợi nhuận dư thu từ cho vay
Qua công thức trên ta có thể so sánh được tỷ lệ lợi nhuận thu được từ
hoạt động cho vay so với hoạt động tín dụng trong Ngân hàng. Ta có thể biết
được hiệu quả của việc cho vay khoản vay của Ngân hàng và tỷ trọng của cho
vay trong tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.3.2.5.Chỉ tiêu về nợ quá hạn
Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng một khoản vay, được tính
dựa trên chỉ số:
Nợ quá hạn của tín dụng
Tổng dư nợ tín dụng
Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng ở một
thời điểm nhất định, thường được tính vào cuối quý, cuối tháng, cuối năm.
Như ta đã biết tín dụng là sự hoàn trả chính vì vậy khi một khoản vay
không được hoàn trả đúng hạn nó đã vi phạm nguyên tắc cơ bản nhất của tín
dụng. Lúc này ngân hàng sẽ chuyển khoản vay sang nợ quá hạn để theo dõi và
xử lý với một mức lãi suất cao hơn bình thường. Trên thực tế những khoản vay
quá hạn thường có vấn đề, có khả năng mất vốn, có tính an toàn thấp.
Với hoạt động chính là cho vay thì việc gặp rủi ro là điều không thể tránh
khỏi trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên nếu khoản nợ quá hạn
vượt quá một mức độ nào đó thì nó đã gây ra nguy hiểm trong hoạt động của
ngân hàng. Ngân hàng sẽ không thu được nợ điều đó đồng nghĩa với việc ngân
hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khẳ năng thanh khoản, nếu nhẹ thì ngân hàng bị
-13-
giảm thu nhập mất uy tín với khách hàng( một điều quan trọng của ngân hàng),
nếu tình trạng mất khả năng thanh khoản kéo dài ngân hàng sẽ bị phá sản. Nếu
tổ chức tín dụng nào có khoản vay được xếp vào nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá
là có chất lượng tín dụng thấp.
1.3.2.6. Chỉ tiêu huy động vốn của ngân hàng
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Vốn sử dụng
x 100%
Vốn huy động
Qua chỉ tiêu này ta xác định được hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Chỉ tiêu càng lớn chứng tỏ ngân hàng hoạt động hiệu quả.
Việc huy động được nguồn vốn tốt cũng đảm bảo cho chất lượng của
khoản tín dụng hơn.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHTM
1.3.1 Các nhân tố chủ quan.
1.2.3.1. Những nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Trong thực tế quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại, chúng ta
thấy trong cùng một thời gian, ở cùng một thị trường nhưng có ngân hàng
thương mại chất lượng tín dụng cao, tổn thất ít nhưng có ngân hàng thương mại
gặp khó khăn, tổn thất tín dụng lớn và mức độ khó khăn cũng rất khác nhau.
Thậm chí có ngân hàng thương mại tổn thất tín dụng quá lớn, không khắc phục
được buộc phải phá sản. Trong khi đó có một số ngân hàng thương mại khác lại
tăng trưởng tín dụng. chiếm lĩnh thị trường, hiệu quả tín dụng cao. Có rất nhiều
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, nhưng nhân tố quyết định phải có
khả năng lớn nhất, có tính quyết định trong việc phòng ngừa, ngăn chặn được rủi
ro tín dụng do các nhóm nguyên nhân gây ra. Có hai nhân tố cơ bản, đó là:
- Chất lượng cán bộ tín dụng
Trong mọi lĩnh vực, con người là yếu tố quyết định. Vâng đó là một chân
lý song ở đây xin được cụ thể là việc đảm bảo chất lượng tín dụng trước hết phải
do chính những người trực tiếp làm tín dụng ( cán bộ tín dụng) quyết định. Cán
bộ tín dụng hàng ngày phải xử lý nghiệp vụ có tính biến động liên quan đến
nhiều lĩnh vực, nghành nghề kinh tế; gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng;
đối mặt với nhiều loại cám dỗ; có nhiều cơ hội có thể thực hiện được những
hành vi để vụ lợi… Vì vậy, người cán bộ tín dụng cần phải được tuyển chọn cẩn
thận, được bố trí hợp lý, được quan tâm giáo dục rèn luyện… và phải đảm bảo
một số tiêu chuẩn cơ bản sau:
+ Phải có kiến thức, trình độ nghiệp vụ cơ bản:
-14-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét