Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành sản xuất, chế biến, xuất khẩu Gạo.pdf

-5-

(1)
Phòng Thò Huỳnh Mai, Đánh giá năng lực cạnh tranh một số mặt hàng nông
sản ở ĐBSCL khi gia nhập WTO, Luận văn thạc só kinh tế, ĐH Cần Thơ, 2007
Đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết các vấn đề:
-Về chính sách nông nghiệp của Việt Nam so với những quy đònh của
WTO
- Phân tích hiện trạng năng lực cạnh tranh của các mặt hàng nông sản ở
ĐBSCL so với các đối thủ mạnh trong khu vực.
- Phân tích cơ hội, thách thức của một số mặt hàng nông sản của ĐBSCL
khi gia nhập WTO.
- Đề ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các mặt hàng này.
Kết luận của đề tài là ngành nông sản ĐSCL, đặc biệt là lúa gạo đang có
lợi thế cạnh tranh tuy nhiên đang bò mất dần lợi thế và đề ra giải pháp khắc phục.
(2)
Đinh Châu Hồng Ngọc, Phân tích năng lực cạnh tranh ngành may thành phố
Cần Thơ, Luận văn thạc só kinh tế, ĐHCT, 2007
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu thực tiễn về năng lực
cạnh tranh của ngành may TP Cần Thơ thông qua việc sử dụng các lý luận khoa
học để phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, từ đó đề xuất giải pháp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành.
(3)
Dương Ngọc Thí, Tác động của việc gia nhập WTO tới nông nghiệp Việt
Nam, Dự án hỗ trợ Thương mại Đa biên Mutrap II, tháng 04-2008.
Bài viết là một phần trong dự án hỗ trợ Mutrap II, đã phân tích và đưa ra
lợi thế của một số mặt hàng nông sản của Việt Nam, đồng thời phân tích tác động
của WTO đến ngành nông nghiệp như tác động về thò trường, mặt hàng; tác động
lên thu nhập và đời sống nông dân… và đưa ra kiến nghò đối với ngành nông
nghiệp.
-6-

(4)
Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, Đánh giá tác động của 5 năm triển khai hiệp đònh
thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ đối với thương mại, đầu tư, và cơ
cấu kinh tế của Việt Nam, NXB Chính Trò Quốc Gia, 2007
Nội dung của bài này là về thay đổi của Việt Nam về cải cách mà Việt
Nam đã tiến hành để thực hiện thành công Hiệp Đònh Thương Mại song phương
giữa hai nước; đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ; đầu tư
gián tiếp; những thay đổi trong cơ cấu kinh tế trên góc độ sản lượng và việc làm;
sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam…
6. TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI
(1) Đề tài tập trung nghiên cứu sâu về năng lực cạnh tranh ngành Gạo xuất
khẩu của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.
(2) Sử dụng 2 mô hình đònh tính và đònh lượng trong phân tích lợi thế cạnh
tranh của ngành theo lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal Porter.
(3) Sử dụng phương pháp phân tích hiệu quả sản xuất dựa vào các chi phí
hoạt động của các doanh nghiệp bằng phần mềm DEAP 2.1 trong phân tích sự tác
động của việc hội nhập kinh tế đối với các doanh nghiệp trong ngành là việc
phân tích hoàn toàn mới.
-7-
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LI THẾ CẠNH TRANH
NGÀNH GẠO XUẤT KHẨU TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LI THẾ CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
.
Các học thuyết kinh tế thò trường dù trường phái nào đều thừa nhận rằng:
Cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thò trường, nơi mà cung- cầu
và giá cả hàng hóa là những nhân tố cơ bản của thò trường là đặc trưng cơ bản của
kinh tế thò trường; cạnh tranh là linh hồn sống của thò trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp, do cách tiếp cận
khác nhau, nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh.
Cạnh tranh theo đònh nghóa của Đại từ điển tiếng Việt là “
Tranh đua giữa
những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng
về mình

Theo cuốn Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam đó chọn đònh
nghóa về cạnh tranh cố gắng kết hợp cả các DN, ngành và quốc gia như sau :

Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc
làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Theo Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học “
Cạnh tranh - sự đấu tranh đối lập
giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay
nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được
”.
Ngoài ra, cũng có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm
cạnh tranh Song qua các đònh nghóa trên có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau:
- Cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm giành lấy phần thắng của nhiều
chủ thể cùng tham dự.
-8-
- Mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể mà các bên
đều muốn giành lấy để cuối cùng là kiếm được lợi nhuận cao.
- Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể có các ràng buộc chung
mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thò trường, các điều
kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh
- Trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử
dụng nhiều công cụ khác nhau: Cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản
phẩm; cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm; cạnh tranh nhờ dòch vụ bán
hàng tốt, cạnh tranh thông qua hình thức thanh toán
Với phương pháp tiếp cận trên, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm đủ
mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình,
thông thường là chiếm lónh thò trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều
kiện sản xuất, thò trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế
trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh
là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi

1.1.2. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh ngành
1.1.2.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith:
Theo quan điểm của Adam Smith, lợi thế tuyệt đối được hiểu là sự khác
biệt tuyệt đối về năng suất lao động cao hơn hay chi phí lao động thấp hơn để
làm ra cùng một loại sản phẩm. Mô hình mậu dòch quốc tế của một quốc gia là
chỉ xuất khẩu những sản phẩm mà mình có lợi thế tuyệt đối và nhập khẩu những
sản phẩm không có lợi thế tuyệt đối. Mở rộng vấn đề ra, nếu mỗi quốc gia tập
trung chuyên môn hóa sản xuất vào lọai sản phẩm mà mình có lợi thế tuyệt đối
thì tài nguyên của đất nước sẽ được khai thác có hiệu quả hơn và thông qua biện
pháp trao đổi mậu dòch quốc tế các quốc gia giao thương đều có lợi hơn do tổng
-9-
khối lượng các loại sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của mỗi
quốc gia tăng nhiều hơn và chi phí rẻ hơn so với trường hợp phải tự sản xuất toàn
bộ.
Tuy nhiên, thực tế thì chỉ có một số ít nước có lợi thế tuyệt đối, còn những
nước nhỏ hoặc nghèo tài nguyên thì việc trao đổi mậu dòch quốc tế có xảy ra
không ? Lý thuyết Lợi thế tuyệt đối không trả lời được mà phải dựa vào lý thuyết
lợi thế so sánh của David Ricardo.
1.1.2.2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo:
Theo lý thuyết của Ricardo, các quốc gia không có lợi thế cạnh tranh tuyệt
đối và việc mua bán trao đổi giữa hai quốc gia vẫn có thể thực hiện được nhờ vào
lợi thế cạnh tranh này.
Lợi thế cạnh tranh tương đối được tính bằng tỷ lệ tiêu hao nguồn lực để
sản xuất ra sản phẩm A (quốc gia 1) so với sản phẩm B (quốc gia 2) của một
quốc gia thấp hơn quốc gia khác và ngược lại quốc gia 2 sẽ có tỷ lệ tiêu hao
nguồn lực giữa sản phẩm B so với sản phẩm A là thấp hơn quốc gia 1 mặc dù có
thể quốc gia 1 có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối cả 2 sản phẩm A và B so với quốc
gia 2. Do dó, quốc gia 1 tiến hành chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm A và quốc
gia 2 tiến hành chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm B và hai quốc gia tiến hành
trao đổi cho nhau thì cả hai quốc gia đều có lợi.
Tuy nhiên, theo quan điểm hai quốc gia thì việc cạnh tranh chỉ được xét
trên hai quốc gia mà thôi. Trên thực tế, không chỉ có hai quốc gia cạnh tranh lẫn
nhau mà thò trường thế giới có sự tham gia của tất cả các quốc gia trên thế giới và
lý luận của David Ricardo đã bỏ qua chi phí vận chuyển giữa 2 quốc gia. Tuy
nhiên, đây là cơ sở cho việc mua bán trao đổi giữa hai hay nhiều quốc gia trên
thế giới.
-10-
1.1.2.3. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh ngành
Nghiên cứu lợi thế so sánh cho phép chúng ta nhận thức được ưu thế của
nền kinh tế quốc gia trong quan hệ giao thương với các nước khác, làm cơ sở để
xây dựng chính sách thương mại quốc tế cho phù hợp. Tuy nhiên, trong hoạt động
kinh doanh quốc tế (ở cấp doanh nghiệp) và hoạt động thu hút nguồn lực đầu tư
quốc tế để tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi (ở cấp ngành và quốc
gia), các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp, ngành, quốc gia) phải cạnh tranh với
nhau vô cùng quyết liệt để tồn tại và phát triển. Nói như vậy có nghóa là, giữa lợi
thế so sánh và lợi thế cạnh tranh có một khoảng cách nhất đònh, chỉ với phạm trù
lợi thế so sánh chưa đủ để làm sáng tỏ mọi vấn đề của môi trường thương mại
quốc tế, mà cần phải nghiên cứu sâu hơn về lợi thế cạnh tranh.
Trước hết, cần làm rõ khái niệm
“ngành”
(hay ngành kinh tế) được đề cập
ở đây là ngành hàng, gắn liền với một chủng loại sản phẩm cụ thể, ví dụ như:
ngành ô tô, ngành máy tính điện tử, ngành dệt may, ngành du lòch, ngành viễn
thông… (để phân biệt với 3 ngành kinh tế cơ bản của nền kinh tế là: nông nghiệp,
công nghiệp và dòch vụ). Lợi thế cạnh tranh của ngành được xem xét trong mối
tương quan giữa các ngành hàng tương ứng của những quốc gia khác nhau để
tranh giành thò trường trên phạm vi thế giới. Lợi thế cạnh tranh của ngành sẽ tăng
theo qui mô của các ngành hàng và đó là biểu hiện lợi thế bên ngoài của nền
kinh tế.
(1) Lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngành
Lợi thế cạnh tranh của ngành hàng cụ thể của một quốc gia là sự khác biệt
về lợi thế cạnh tranh mang tính vượt trội của các nhóm chiến lược trong ngành
hàng đó so với các nhóm chiến lược trong ngành hàng tương ứng của những quốc
gia khác trên thế giới. Và do đó, năng lực cạnh tranh của ngành hàng biểu hiện
qua năng lực cạnh tranh của các nhóm chiến lược trong ngành. Nhóm chiến lược
-11-
là một tập hợp những công ty áp dụng chiến lược sản xuất kinh doanh tương tự
nhau. Mỗi ngành hàng có thể bao gồm một hay nhiều nhóm chiến lược. Dấu hiệu
căn bản phân biệt các nhóm chiến lược là giá cả và bề rộng của dòng sản phẩm
(thể hiện qua qui cách chất lượng, chủng loại sản phẩm).
(2) Môi trường cạnh tranh của ngành
Một ngành hàng cụ thể của một quốc gia nhất đònh sẽ phải cạnh tranh với
ngành hàng tương ứng của nhiều quốc gia khác trên phạm vi thế giới. Do vậy,
môi trường cạnh tranh của ngành là môi trường kinh tế quốc tế, bao gồm: môi
trường thương mại, môi trường sản xuất và môi trường tài chính trong mối quan
hệ liên kết toàn cầu. Trong điều kiện các trào lưu toàn cầu hóa, khu vực hóa đã
và đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ trên thế giới, môi trường cạnh tranh của các
ngành hàng đều có sự biến động không ngừng theo xu hướng ngày càng hoàn
thiện hơn nhưng cũng phức tạp hơn rất nhiều. Trong đó, các luật chơi trong quan
hệ thương mại quốc tế không ngừng được bổ sung; kỹ thuật công nghệ của bất kỳ
ngành sản xuất nào cũng đạt được những tiến bộ vượt bậc; và, quan hệ tài chính
quốc tế đã gắn kết các nền kinh tế lại với nhau trong mối quan hệ phụ thuộc hết
sức sâu rộng và chặt chẽ.
Trong môi trường cạnh tranh quốc tế, các ngành hàng (và các nhóm chiến
lược của ngành) luôn đối diện với rất nhiều thời cơ và thách thức. Phản ứng trước
thời cơ và thách thức đó của tất cả doanh nghiệp trong các nhóm chiến lược (của
từng ngành hàng) sẽ tất yếu dẫn tới sự xuất hiện của những công ty đa quốc gia
và công ty xuyên quốc gia. Đây là lực lượng chính của tiến trình toàn cầu hóa.
Điều đó không chỉ làm cho môi trường cạnh tranh quốc tế của các ngành hàng trở
nên hoàn chỉnh và phức tạp hơn như đã nói trên, mà còn làm phát sinh thêm
nhiều ngành (sản phẩm) mới với trình độ chuyên môn hóa sản xuất sâu hơn, hiện
-12-
đại hơn, đảm bảo khả năng sinh lợi mạnh mẽ hơn, đe dọa làm suy giảm và thay
thế dần các ngành (sản phẩm) gốc đã sản sinh ra ngành (sản phẩm) mới.
(3) Đánh giá lợi thế cạnh tranh của ngành
Để đánh giá lợi thế cạnh tranh của một ngành hàng cụ thể mạnh hay yếu,
ta phải dựa vào 3 nhóm yếu tố cơ bản như sau:
Một là, năng lực cạnh tranh của các nhóm chiến lược trong ngành
, biểu
hiện tập trung qua sự khác biệt về giá cả sản phẩm và bề rộng dòng sản phẩm.
Trong đó, yêu cầu các doanh nghiệp trong từng nhóm chiến lược phải dự báo cho
được chu kỳ sống sản phẩm của ngành trên phạm vi thò trường thế giới để điều
chỉnh chiến lược phù hợp theo hướng không ngừng nâng cao qui mô lợi suất kinh
tế và bành trướng dần hoạt động sản xuất kinh doanh ra khỏi biên giới quốc gia.
Hai là, cấu trúc và lợi thế theo qui mô của ngành
. Trong này, cần phải xem
xét đánh giá đầy đủ các khía cạnh như: mặt bằng công nghệ chung của ngành cao
hay thấp; hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của ngành đã phát triển đến chừng mực
nào; các ngành liên kết và bổ trợ có đầy đủ, đồng bộ hay không…? để biết các
mặt đó tác động đến khả năng giảm chi phí đầu vào của ngành như thế nào?
Ba là, nhóm yếu tố về chính sách
. Cần nắm rõ vai trò, vò trí của ngành
trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia; ngành đó được qui hoạch phát triển
ra sao; có phải là ngành kinh tế mũi nhọn hay không; chính sách của chính phủ
đối với ngành là khuyến khích hay hạn chế phát triển…?
Từ 3 nhóm yếu tố cơ bản trên, chúng ta có thể chi tiết hóa thành nhiều yếu
tố cụ thể hơn để đánh giá lợi thế cạnh tranh của một ngành hàng. Trong thực tế,
lợi thế cạnh tranh của ngành được đánh giá trên cả hai mặt đònh tính và đònh
lượng. Trong phần minh họa dưới đây, việc đánh giá lợi thế cạnh tranh của ngành
về mặt đònh tính sẽ dựa vào
Mô hình chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm
(
International Product Life Cycle Model – IPLC
) của Raymond Vernon; còn
-13-
đánh giá về mặt đònh lượng sẽ dựa vào
Biểu đồ tổ hợp
(
Cluster Chart
) những
ngành hàng có lợi thế cạnh tranh cao của quốc gia được đề xướng bởi Michael E.
Porter.

Mô hình chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm (IPLC) của Raymond Vernon
Trong khi tập trung nghiên cứu về kinh tế quốc tế hồi thập niên 60 của thế
kỷ XX, Raymond Vernon đã phát hiện ra tính qui luật của hiện tượng các doanh
nghiệp Mỹ phát triển thành những công ty đa quốc gia và giữ vai trò chi phối hoạt
động thương mại quốc tế trong một thời gian dài. Trên cơ sở đó, năm 1966 ông đã
đưa ra mô hình chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm để mô tả khái quát quá trình
quốc tế hóa hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đòa phương tại một quốc
gia tiên tiến, bắt đầu từ việc bán sản phẩm mới, hàm lượng công nghệ cao cho
người tiêu dùng có thu nhập cao trên thò trường nội đòa. Và qua phân tích chu kỳ
thương mại quốc tế trong mô hình IPLC (bao gồm 3 giai đoạn, thể hiện trên hình
1.1.) chúng ta sẽ thấy rõ sự chuyển dòch lợi thế cạnh tranh của ngành hàng tương
ứng giữa các quốc gia liên hệ.
(1)
Giai đoạn mở đầu của sản phẩm mới
: tính từ khi có doanh nghiệp của
một nước công nghiệp khai thác thế mạnh công nghệ để tạo ra bước đột phá sản
xuất kinh doanh sản phẩm mới có tính sáng tạo cao trên thò trường nội đòa. Vì là
nước công nghiệp, nên thò trường nội đòa có dung lượng lớn, người tiêu dùng có
thu nhập cao và sẵn lòng chấp nhận sản phẩm mới với giá cao (thay vì đòi hỏi giá
rẻ). Nhà sản xuất còn có nhiều thuận lợi khác, như: dễ dàng huy động vốn để đầu
tư phát triển sản phẩm mới; dễ dàng có được sự cung ứng tốt nhất các yếu tố đầu
vào của nhiều đơn vò liên kết và bổ trợ… nghóa là có đủ điều kiện để nâng cao qui
mô lợi suất kinh tế và giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất. Sự phát triển kinh
doanh sản phẩm mới mạnh mẽ của nhà sản xuất tiên phong sẽ thu hút các doanh
nghiệp nội đòa khác tham gia cạnh tranh, dẫn đến sự hình thành rõ nét các nhóm
-14-
chiến lược của ngành. Đến gần cuối giai đoạn này, do sức ép cạnh tranh trên thò
trường nội đòa tăng lên, các doanh nghiệp trong ngành sẽ càng đẩy mạnh xuất
khẩu sản phẩm mới sang thò trường các nước công nghiệp khác, vì ở đó người tiêu
dùng cũng có thu nhập cao, cũng bò hấp dẫn bởi sản phẩm mới, còn sự cạnh tranh
của các doanh nghiệp đòa phương thì chưa đáng kể. Khi đó, ngành hàng mới của
nước công nghiệp phát minh ra sản phẩm sẽ dẫn đầu về lợi thế cạnh tranh và
chiếm ưu thế lớn trong xuất khẩu sản phẩm này.

Hình 1.1. Mô hình chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm

(2)
Giai đoạn sản phẩm trưởng thành
: qui trình sản xuất và thiết kế sản
phẩm đi dần vào thế ổn đònh; sản phẩm mới được xuất khẩu mạnh từ nước công
nghiệp phát minh ra nó đến các nước công nghiệp khác. Trong giai đoạn này, tại
nước công nghiệp phát minh sản phẩm mới đã hình thành các công ty đa quốc
gia. Và do yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận, các công ty đa quốc gia đó có xu hướng
Nkhẩu
XKhẩu
Thời gian
Sp mới Sp trưởng thành Sp đã chuẩn hóa
(1): nước công nghiệp phát minh sản phẩmmới
(2): các nước công nghiệp khác (thu nhập cao)
(3): các nước đang phát triển (thu nhập thấp)
(1)
(2)
(3)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét