chơng I
Nguồn gốc và cơ sở lý luận
I . Bản chất con ngời
Con ngời là sinh vật có tính xã hội. Đối với Mác con ngời không phải là
một tồn tại trừu tợng, ẩn náu đâu đó ngoài thế giới
(4)
. Đó là những con ngời
sống trong một thời đại nhất định, một môi trờng xã hội nhất định, có những
quan hệ xã hội phong phú, phức tạp và ngày càng phong phú với sự phát triển
của văn minh.
Các Mác viết Bản chất con ngời không phải là một cái trừu tợng cố hữu
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngời là tổng hoà
những quan hệ xã hội
(5)
. Qua luận đề nổi tiếng đó, chúng ta thấy Mác muốn
nói bản chất con ngời, một sự trừu tợng khoa học, là sự khái quát từ đời sống
cụ thể, từ thuộc tính của con ngời hiện thực, thế hệ này qua thế hệ khác, bản
chất con ngời đợc thể hiện và chỉ có thể đợc thể hiện thông qua tổng thể các
quan hệ xã hội. Muốn tìm bản chất con ngời thì phải tìm ở bên trong chứ
không phải ở bên ngoài đời sống hiện thực của con ngời. Luận đề của Mác
không làm mất đi tính cá nhân, khẳng định sự kỳ diệu, sự phong phú vô hạn
của tính cách con ngời. Nếu đứng trên quan điểm sinh vật học mà xét thì
không thể hiểu đợc chẳng những thực chất của con ngời, mà ngay cả ý nghĩa
của cơ thể con ngời, từ khi quá trình nguồn gốc loài ngời kết thúc thì những
biến đổi trong cơ thể đều đợc hớng dẫn bởi ảnh hởng quyết định của văn hoá:
khả năng đối xử có tính ngời đối với thế giới và đối với những ngời khác, khả
năng lao động, giao tiếp với những ngời chung quanh, khả năng t duy, có
những tình cảm đạo đức và những xúc cảm thẩm mỹ, tất cả những cái đó đều
không phải là đặc tính của cơ thể mà là những nét đã hình thành trong quá
trình thực tiễn lịch sử xã hội, tiêu biểu cho thực chất của con ngời trong cách
biểu hiện và bộc lộ cá thể của nó. Những nét ấy đợc hình thành nhờ chỗ con
ngời tham gia vào hệ thống các quan hệ xã hội, vào quá trình hoạt động lao
động, đi liền với sự tham gia của con ngời vào quá trình nắm vững và tái tạo
nền văn hoá xã hội (lao động, hoạt động). Chính trong quá trình này con ngời
đã tự sáng tạo ra bản thân mình một cách lịch sử và không ngừng tái hiện bản
thân mình, tự giáo dục bản thân với t cách là con ngời. Tiêu chuẩn lịch sử cho
phép ngời ta phân biệt con ngời- đó là sản xuất ra công cụ lao động cũng bằng
chính công cụ. Đồng thời tiền đề tuyệt đối và điều kiện của văn hoá con ngời
5
là giới tự nhiên mà con ngời dùng để xây dựng nền văn hóa của mình bằng
cách chinh phục tự nhiên một cách sáng tạo. Con ngời xã hội là kẻ sáng tạo ra
lịch sử, sáng tạo ra bản thân mình. Chính vì vậy, con ngời hoàn toàn mang tính
xã hội.
Vậy thì trong đời sống xã hội con ngời có vai trò gì?
II . Vai trò của con ngời trong đời sống xã hội, đặc
biệt trong quá trình sản xuất xã hội
Hơn một trăm năm trớc, khi khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của xã
hội loài ngời là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, Các Mác
đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con ngời làm thớc đo chung cho
sự phát triển xã hội. Các Mác cho rằng, xu hớng chung của tiến trình phát triển
lịch sử đợc quy định bởi sự phát triển của lực lợng sản xuất bao gồm con ngời
và những công cụ lao động do con ngời tạo ra. Sự phát triển của lực lợng sản
xuất tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con ngời chiếm
lĩnh và sử dụng ngày càng nhiều lực lợng tự nhiên với t cách là cơ sở vật chất
cho hoạt đoọng sống của chính con ngời. Chúng ta biết rằng sản xuất là quá
trình hoạt động thực tiễn cơ bản của con ngời nhằm thoả mãn những nhu cầu
của mình. Sản xuất quyết định nhu cầu nhng không có nhu cầu thì cũng không
có sản xuất. Nhu cầu của con ngời tăng lên không ngừng, do đó mà con ngời
luôn luôn phát triển sản xuất vì muốn nâng cao năng suất, chất lợng, hiệu quả
của sản xuất, giảm nhẹ lao động. Vì vậy có thể nói, trong quá trình hoạt động,
trớc hết và quan trọng hơn cả là hoạt động lao động sản xuất, bộ óc và bàn tay
con ngời không ngừng hoàn thiện. Sự hoàn thiện của bộ óc là cơ sở, là nguồn
vật chất vô tận cho những hoạt động ngày càng phức tạp, tinh vi, đa dạng,
phong phú của con ngời, đa đến sự thay đổi liên tục cơ sở vật chất và kỹ thuật
của xã hội. Sự phát triển hoàn thiện không ngừng của trí tuệ con ngời đã đợc
thể hiện bằng việc truyền đạt, tàng trữ những tri thức lý luận và kinh nghiệm từ
thế hệ này sang thế hệ khác và đợc ghi nhận nhân cách cụ thể, trớc hết ở sự
biến đổi của công cụ sản xuất. Hay nói cách khác, sức mạnh trí tuệ con ngời
không ngừng đợc vật thể hoá trong công cụ sản xuất, trong lực lợng sản xuất
nói chung. Tính vô tận của trí tuệ con ngời đợc biểu hiện ở sự biến đổi không
ngừng ở tính đa dạng, phong phú vô cùng tận của công cụ sản xuất trong quá
trình phát triển của xã hội. Những cuộc cách mạng lực lợng sản xuất đã và
đang diễn ra trong lịch sử xã hội loài ngời là những nấc thang đánh dấu sự
phát triển ngày càng cao hơn của công cụ sản xuất: từ lửa đến công cụ sản
xuất thủ công, rồi công cụ cơ khí máy móc và công nghệ trí tuệ ngày nay Tất
cả những điều đó chứng tỏ rằng con ngời với bàn tay và khối óc của mình là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất.
6
Nhng bên cạnh vai trò con ngời là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu
tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong lực lợngsản xuất của xã hội, con ng-
ời còn là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản
xuất vật chất, cc sáng tạo ra lịch sử của chính mình, sáng tạo ra lịch sử của xã
hội loài ngời. Kết quả là xã hội loài ngời đã bớc từ thời đại văn minh này sang
thời đại văn minh khác cao hơn, trong quá trình lịch sử tự nhiên.
Mặt khác khi sản xuất ngày càng phát triển, tính chất xã hội hóa của sản
xuất ngày càng gia tăng, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lợng của toàn
xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại sẽ cần đến
những con ngời hoàn toàn mới. Các Mác đã khẳng định: sự phát triển của lực
lợng sản xuất xã hội trớc hết có ý nghĩa là sự phát triển phong phú của bản
chất con ngời, coi nh là một mục đích tự thân
(6)
. Bởi vậy theo Các Mác, ý
nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con ngời
toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá của con ngời, giải phóng con ngời,
loại trừ ra khỏi cuộc sống con ngời mọi sự tha hoá để con ngời sống với cuộc
sống đích thực của mình.
Thực tế đã chứng minh, trong công cuộc đổi mới đất nớc, chỉ có con ngời-
yếu tố quan trọng nhất trong lực lợng sản xuất của xã hội mới là nhân tố
chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại. Nhng
con ngời cũng là mục tiêu, là cái đích của sự phát triển, sự đổi mới này. Hay
nói cách khác, công cuộc đổi mới đất nớc mà cụ thể là công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là do con ngời, phụ thuộc vào con ngời và vì con ngời.
7
Chơng II
Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
I . công nghiệp hoá, hiện đại hoá là gì ?
Từ trớc tới nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá.
Vậy nên hiểu phạm trù này nh thế nào?
Quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hoá cho rằng công nghiệp hoá
là đa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị ( cho một vùng, một n-
ớc), các nhà máy, các loại công nghiệp Quan niệm mang tính triết tự này đ-
ợc hình thành trên cơ sở khái quát quá trình hình thành lịch sử công nghiệp
hoá ở các nớc Tây Âu, Bắc Mỹ.
Nghiên cứu định nghĩa phạm trù công nghiệp hoá của các nhà kinh tế Liên
Xô (cũ) ta thấy trong cuốn giáo khoa kinh tế chính trị của Liên Xô đợc dịch
sang tiếng Việt Nam 1958, ngời ta đã định nghĩa công nghiệp hoá XHCN là
phát triển đại công nghiệp, trớc hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần
thiết cho việc cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên
tiến.
Quan điểm công nghiệp hoá là quá trình xây dựng và phát triển đại công
nghiệp, trớc hết là công nghiệp nặng của các nhà kinh tế học Liên Xô đã đợc
chúng ta tiếp nhận thiếu sự phân tích khoa học đối với điều kiện cụ thể của n-
ớc ta. Cuốn Từ điển tiếng Việt đã giải thích công nghiệp hoá là quá trình
xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc
dân và đặc biệt công nghiệp nặng, dần tới sự tăng nhanh trình độ trang bị kỹ
thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao động. Trên thực tế, quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc những năm 60, ta đã mắc phải sai lầm
đó, kết quả là nền kinh tế vẫn không thoát khỏi nền công nghiệp lạc hậu, nông
nghiệp lạc hậu, kết cấu hạ tầng yếu kém Mặc dù không đạt đợc mục tiêu nh-
ng cũng chính nhờ công nghiệp hoá mà nớc ta đẫ xây dựng đợc một số cơ sở
vật chất kỹ thuật nhất định, tạo ra tiềm lực về kinh tế-quốc phòng, phục vụ
chiến tranh, đảm bảo đợc phần nào đời sống nhân dân.
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc ( UNIDO)
đã đa ra một định nghĩa: công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế,
trong quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân
đợc động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nớc với kỹ
thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn thay
đổi để sản xuất ra t liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và có khả năng đảm bảo cho
8
toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ của
nền kinh tế và xã hội. Theo quan điểm này, quá trình công nghiệp hoá nhằm
thực hiện nhiều mục tiêu chứ không phải chỉ nhằm một mục tiêu kinh tế-kỹ
thuật.
Còn theo quan niệm mới phù hợp với điều kiện nớc ta thì công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới
công nghệ, xây dựng cơ cấu vật chất-kỹ thuật, là quá trình chuyển nền sản
xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp sang trình độ công nghệ cao hơn, nhờ
đó mà tạo ra sự tăng trởng bền vững và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Nói tóm lại đó là sự phát triển của lực lợng sản xuất từ thấp đến cao, từ cha
hoàn thiện đến hoàn thiện. Thực hiện công nghiệp hoá là nhằm phát triển
kinh tế-xã hội, đa nớc ta theo kịp các nớc tiên tiến trên thế giới.
II. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá ta
phải làm gì?
Sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài
môi trờng chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết nh: nguồn lực con
ngời, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý, nguồn
lực nớc ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia
vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhng mức độ tác động và vai trò
của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không
giống nhau, trong đó nguồn lực con ngời là yếu tố quyết định.
Vai trò của nguồn lực con ngời quan trọng nh thế nào đã đợc chứng minh
trong lịch sử kinh tế của những nớc t bản phát triển nh Nhật Bản, Mỹ, nhiều
nhà kinh doanh nớc ngoài khi đến tham quan Nhật Bản thờng chỉ chú ý đến kỹ
thuật, máy móc và coi đó là nguyên nhân tạo nên kỳ tích Nhật Bản. Nhng họ
đã nhầm, chính ngời Nhật Bản cũng không quan niệm nh vậy. Ngời Nhật cho
rằng kỹ thuật và công nghệ có vai trò rất to lớn nhng không phải là yếu tố
quyết định nhất. Yếu tố quyết định nhất dẫn đến thành công của họ là con ng-
ời. Cho nên họ đã tập trung cao độ và có những chính sách độc đáo phát triển
yếu tố con ngời.
Ngày nay đối với những nớc lạc hậu đi sau, không thể phát triển nhanh
chóng nếu không tiếp thu những tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện
đại của các nớcphát triển. Nhng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng
mọi giá mà không cần tính đến yếu tố con ngời. Cần nhớ rằng, công nghệ tiên
tiến của nớc ngoài khi đợc tiếp thu sẽ phát huy tác dụng tốt hay bị lãng phí,
thậm chí bị phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố con ngời khi sử dụng
9
chúng. Nhiều công ty chỉ chú ý đổi mới kỹ thuật và công nghệ nhng vì không
chú ý đến yếu tố con ngời nên đều thất bại. Ông Victor S.L.Tan, giám đốc của
Ohostate University đã viết: Điều mỉa mai lớn nhất còn là ở chỗ, trong có
nhiều công ty đã cố thực hiện đổi mới, nhng lại có ít công ty thực hiện đủ mức
để đạt tới thành công. Nhiều công cuộc đổi mới đã tiến hành nhng thất bại vì
các công ty đó đã không đa vào cấu tạo của kế hoạch đổi mới hoặc chơng trình
đổi mới của họ một nhân tố khó nhất để thành công- con ngời.
Nh mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con ngời và do
nguồn lực này quyết định. Bởi vì:
_ Thứ nhất, các nguồn lực khác nh vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý
tự nó chỉ tồn tại dới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý
nghĩa tích cực xã hội khi đợc kết hợp với nguồn lực con ngời thông qua hoạt
động có ý thức của con ngời. Bởi lẽ, con ngời là nguồn lực duy nhất biết t duy,
có trí tuệ và có ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn chúng kết lại với
nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể chịu sự cải
tạo, khai thác của con ngời, hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích
của con ngời, nếu con ngời biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các
yếu tố cấu thành lực lợng sản xuất, ngời lao động là yếu tố quan trọng nhất, là
lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại.
Chẳng hạn nh vốn cũng là một nguồn lực để tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nhng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự
phát triển khi nó nằm trong tay những ngời biết sử dụng đúng mục đích và có
hiệu quả cao.
Tơng tự nh vậy, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những u thế về vị
trí địa lý cũng sẽ mất ý nghĩa nếu chủ nhân của nó không có năng lực khai
thác.
Ngày nay trớc xu hớng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự hợp tác đầu t nớc
ngoài cũng là nguồn lực quan trọng, nó tạo ra cái hích kinh tế, nhất là với
các nớc có điểm xuất phát thấp, nhng sức mạnh của cái hích này đến đâu,
tác động tích cực của nó nh thế nào còn tuỳ thuộc vào yếu tố con ngời khi tiếp
nhận nguồn lực đó.
Xét đến cùng nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con ngời
thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm nguồn lực cũng
không còn lý do gì để tồn tại.
10
_ Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong
khi đó nguồn lực con ngời lại là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về
mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con ng-
ời xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho
năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con ngời phát triển nh một quá
trình vô tận xét trên bình diện cộng đồng nhân loại. Nhờ vậy con ngời đã từng
bớc làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới,
nhiều công cụ sản xuất có hiệu quả hơn, đa xã hội chuyển qua các nền văn
minh từ thấp đến cao.
_ Thứ ba, trí tuệ con ngời có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó đợc vật thể
hoá, trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.MáC đã và
đang trở thành hiện thực. Sự phát triển nh vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nớc công
nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Giờ đây sức mạnh của
trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con ngời có thể sáng tạo ra những ngời máy
bắt chớc hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con ngời. Rõ
ràng là bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con
ngời làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ
trong lịch sử phát triển của mình.
_ Thứ t, kinh nghiệm của nhiều nớc và thực tiễn của chĩnh nớc ta cho thấy sự
thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc
hoạch định đờng lối, chính sách cũng nh tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc
vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con ngời. Đối với những
nền kinh tế nông nghiệp cha công nghiệp hoá thì mặt số lợng của nguồn nhân
lực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó qui định quy mô của thị trờng. Nhng khi
tiến hành công nghiệp hoá thì mặt chất lợng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn
nhân lực lại quan trọng hơn. Cơ cấu lao động cần cho quá trình công nghiệp
hoá phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các học
giả, các nhà kinh doanh, các nhà kỹ thuật và công nghệ, các công nhân lành
nghề không có các chính khách, các học giả tài ba thì khó có thể có đợc
những chiến lợc, chính sách phát triển đúng đắn; không có các nhà kinh doanh
lỗi lạc thì cũng sẽ không có ngời sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn,
nhân lực, công nghệ. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một trong các bộ phận
cấu thành nhân lực trên đây sẽ có hại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc.
Qua toàn bộ phân tích trên có thể kế luận rằng nguồn lực con ngời là
nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc. Do vậy, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công
11
thì phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu t cho các ngành khoa học, văn hoá,
giáo dục, y tế ở Việt Nam nhằm phát triển nguồn lực con ngời cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và khó khăn nhất trong
công cuộc đổi mới hiện nay.
III . Con ngời Việt Nam có thực hiện đợc vai trò đó
không? Vì sao?
Có rất nhiều nớc trên thế giới đã thực hiện thành công công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc với nguồn lực chủ đạo là con ngời. Vậy trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam hôm nay, Với những thế mạnh và những hạn
chế của mình con ngời Việt Nam có thực hiện đợc vai trò của mình hay
không?
Trớc hết ta tìm hiểu xem nguồn nhân lực của Việt Nam có những đặc điểm
gì để phát huy và những hạn chế gì cần phải khắc phục.
Những thế mạnh phải nói đến đó là:
_ Thứ nhất, ở Việt Nam hiện nay có lực lợng lao động dồi dào với 36,5 triệu
ngời trong độ tuổi lao động, dự báo đến năm 2000 con số này sẽ là 45,6 triệu
ngời.
_ Thứ hai, Việt Nam có tỷ trọng tơng đối cao về lao động trẻ, phần lớn có học
vấn phổ thông, ngay cả ở nông thôn. Đây là một tiền đề quan trọng tạo điều
kiện tiếp thu các kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, kể cả những ngành nghề mới.
Lực lợng lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đợc đào tạo tơng đối lớn
(so với các nớc có thu nhập nh nớc ta). Hiện tại nớc ta có trên 9000 tiến sĩ và
phó tiến sĩ, trên 800000 ngời có trình độ đại học cao đẳng, trên 2 triệu công
nhân kỹ thuật. Đây là điều kiện quan trọng cho quá trình phát triển khoa học,
tiếp thu, làm chủ và thích nghi với các công nghệ nhập từ nớc ngoài, kể cả
công nghệ cao.
_ Thứ ba, chúng ta có một lợng tơng đối lớn ngời Việt sống ở nớc ngoài, tập
trung chủ yếu ở châu Âu, châu Mỹ và Ôxtraylia; trong đó tỉ lệ ngời có trình độ
cao về chuyên môn và nghiệp vụ là đáng kể ( trên 300000 ngời). Đây là một
nguồn lực quan trọng góp phần phát triển đất nớc, là cầu nối giữa Việt Nam và
thế giới về mặt chuyển giao tri thức, công nghệ và các quan hệ quốc tế.
_ Thứ t, đó là bản tính hiếu học, thông minh cần cù lao động của con ngời Việt
Nam. Truyền thống đó cần đợc nuôi dỡng và phát huy làm cơ sở cho việc nắm
bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng, sáng tạo những phát minh,
sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã
12
hội của đất nớc. Tính cộng đồng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng đợc phát
huy mạnh mẽ sẽ có thể hỗ trợ đắc lực không chỉ cho việc truyền bá tay nghề,
kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể giúp nhau cả về vốn liếng, tạo dựng
và phát triển cơ nghiệp, hỗ trợ nhau tìm kiếm công ăn việc làm, góp phần làm
giảm sức ép về lao động hiện nay. Dân tộc Việt Nam còn có truyền thống biết
chịu đựng gian khổ để tiết kiệm, tích luỹ cho đầu t mở rộng, tạo dựng cơ đồ
cho mình và cho nền kinh tế nớc nhà nói chung.
Nhng bên cạnh đó, nguồn nhân lực ở Việt Nam có những hạn
chế,những điểm yếu kém sau đây:
_ Thứ nhất, số ngời lao động đợc đào tạo quá ít chỉ chiếm 5.5% dân số và 11%
tổng số lao động. Mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học của ngời dân từ 7
tuổi trở lên mới đạt 4,5 năm. Đáng lo ngại hơn là mặc dù chúng ta đã cố gắng
để đạt đợc 88% dân số biết chữ nhng hiện nay lại đang diễn ra quá trình tái mù
chữ, nhất là các tỉnh miền núi (có xã số ngời mù chữ lên tới 70%); trong số trẻ
em ở độ tuổi đi học chỉ có 45% em học hết cấp I. Số ngời đợc đào tạo có tay
nghề cao cũng nh ngời có học vấn đại học và sau đại học năm 1982 là 0,26%
năm 1993 còn 0,2%. Tỉ lệ này ở các nớc công nghiệp mới Đông nam á là 0,6
đến 0,8. Trong 75% lao động sản xuất nông nghiệp chỉ có 7% đợc đào tạo. Vì
vậy năng suất lao động thấp, trong công nghiệp chỉ đạt 30% mức trung bình
của thế giới, còn trong nông nghiệp một lao động của ta chỉ nuôi đợc 3 đến 5
ngời, trong khi chỉ số này ở các nớc phát triển là 20 đến 30 ngời. Đây là trở
ngại lớn nhất khi tiến hành công nghiệp hoá trong nông nghiệp trong kinh tế
nông thôn nói riêng và trong cả nền kinh tế Việt Nam nói chung.
_Thứ hai, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ quá ít. Qua điều tra ở 17 trờng đại học
thì số cán bộ giảng dạy dới 35 tuổi chỉ có 8%. Phần lớn những tri thức có trình
độ trên đại học đang là những chuyên gia đầu ngành đã ở độ tuổi 55 đến 60.
Hơn 60% phó tiến sĩ và tiến sĩ, hơn 70% giáo s và hơn 90% giáo s đều ở độ
tuổi này.Trong khi đó sinh viên giỏi sau khi tốt nghiệp đều không muốn ở lại
trờng. Vì vậy việc chuẩn bị cho đội ngũ trí thức kế cận sẽ gặp không ít khó
khăn.
_Thứ ba, việc bố trí sử dụng cán bộ còn nhiều việc bất hợp lý giữa các vùng,
các ngành: 80% cán bộ khoa học công nghệ làm việc tại Hà Nội, ở thành phố
Hồ Chí Minh chỉ có 12%. Đa số các cán bộ khoa học của ta làm việc trong các
viện nghiên cứu, các trờng học, còn trong các ngành sản xuất vật chất thì rất ít
Chẳng hạn, trong các ngành nông lâm ng nghiệp chỉ có 8,1% cán bộ có trình
độ đại học và 6,49% cán bộ có trình độ sau đại học. Trong khi có tới 34% cán
bộ có trình độ đại học và 55,47% trình độ sau đại học làm việc trong các
13
ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Nhìn vào một số nớc trong khu
vực, cán bộ khoa học làm việc trong các ngành sản xuất chiếm tỉ lệ rất cao nh
Thái Lan: 58%, HànQuốc: 48%, Nhật Bản: 64%. Chính việc phân bố lực lợng
lao động không hợp lý này gây nên hiện tợng thừa thiếu giả tạo, gây ra nạn
thất nghiệp đặc biệt trong lao động tri thức. Qua điều tra ở 55 trờng đại học có
khoảng 14 nghìn sinh viên ra trờng cha có việc làm. Chẳng hạn từ năm 1988
đến nay số sinh viên tốt nghiệp ở 19 trờng đại học và cao đẳng khu vực Hà Nội
cha tìm đợc việc làm tăng dần từ 13,4% (năm 1988) lên 35,38% (năm 1992).
Trong khi đó nhiều vùng, nhiều miền nhất là miền núi vùng sâu vùng xa lại
thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật. Nguyên nhân chủ yếu là một mặt do sinh viên
ra trờng muốn ở lại công tác tại các thành phố, khu công nghiệp, nơi kinh tế
phát triển để có thu nhập cao hơn và điều kiện việc làm tốt hơn, mặt khác
chúng ta cha có chính sách thu hút để điều chỉnh sự phân bố này.
_ Thứ t, thể chất, sức khoẻ của thanh niên Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Sự
phát triển về phơng diện sinh lý và thể lực dờng nh chững lại sau hơn 40 năm
thanh niên nớc ta không cao thêm 1cm nào và không cân nặng thêm 1kg nào,
mức duy dinh dỡng ở trẻ em dới năm tuổi là 51,5%.
_ Thứ năm, ngời lao động nớc ta nói chung cha có nếp lao động công nghiệp,
quen theo kiểu sản xuất nhỏ, lao động giản đơn còn gò bó trong nếp sống ph-
ơng đông, cha truyền con nối. Chính vì thế mà cho tới tận thế kỷ 20 công cụ
làm việc ở các bễ lò rèn Bắc Ninh vẫn không khác bao nhiêu với công cụ đã
rèn cày cuốc và vũ khí đánh giặc Ân thời Thánh Gióng, các cô gái Hà Đông
vẫn dệt lụa trên các khung cửi mà cách đây 900 năm các cô gái triều Lý đã sử
dụng.
Trên đây là những điểm trong nguồn lực con ngời ở Việt Nam với những
thế mạnh cũng nh các mặt hạn chế. Phải có những nố lực phi thờng bằng hành
động thực tiễn trong việc huy động và sử dụng nguồn lực này thì công nghiệp
hoá hiện đại hoá mới có thể thành công. Đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà
khoa học kêu gọi phải tiến hành một cuộc cách mạng con ngời mà thực chất
là cách mạng về chất lợng nguồn lao động. Cách mạng con ngời với công
nghiệp hoá hiện đại hoá là hai mặt của một quá trình thống nhất, giữa chúng
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi vậy, mỗi bớc tiến lên của cuộc cách
mạng con ngời sẽ đem lại những thành tựu to lớn cho quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá và ngợc lại.
IV. Để con ngời Việt Nam thực hiện đợc vai trò đó cần
có những chính sách gì?
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét