Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả tài trợ XNK tại Ngân hàng ĐT & PT chi nhánh Hà Nội.doc

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thế chấp, ngân hàng có thể thu hồi được một phần vốn cho vay khi khách hàng
không còn khả năng trả nợ ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương và của hệ thống ngân hàng các
phương thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng đáp ứng đòi hỏi ngày càng
cao của các doanh nghiệp. Nhờ đó, nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK của ngân
hàng cũng phát triển dưới nhiều hình thức, góp phần phục vụ tích cực và có hiệu
quả cho hoạt động XNK.
Tóm lại: Tín dụng tài trợ XNK là một dịch vụ của ngân hàng thương mại
hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các nhà kinh doanh XNK trong hoạt động ngoại
thương, nhằm tạo điều kiện cho họ thực hiện thành công giao dịch thương mại
quốc tế và gia tăng hiệu quả kinh tế của thương vụ, từ đó thúc đẩy quan hệ buôn
bán và mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thê giới phát triển.
1.2. Vai trò của hoạt động tín dụng tài trợ XNK.
Tín dụng tài trợ XNK là một mảng dịch vụ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
không những đối với các doanh nghiệp mà còn đối với cả Ngân hàng và nền
kinh tế. Nhờ hoạt động tài trợ XNK của ngân hàng mà tất cả các bên tham gia
vào thương mại quốc tế đều được hưởng lợi từ chính hoạt động này.
1.2.1. Đối với nền kinh tế.
Thông qua các hình thức tín dụng tài trợ XNK của các ngân hàng thương
mại, hoạt động mua bán hàng hoá XNK theo yêu cầu của thị trường được thực
hiện thường xuyên, liên tục, các sản phẩm trong nước có thể thâm nhập thị
trường quốc tế dễ dàng hơn. Hoạt động tài trợ XNK góp phần nâng cao tính
năng động của nền kinh tế và giúp ổn định thị trường.
Bên cạnh đó, hoạt động tài trợ XNK của ngân hàng còn giúp các doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp XNK nói riêng tồn tại và đứng vững
trong cơ chế thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín và danh
tiếng trên thị trường quốc tế. Và chính sự phát triển của các doanh nghiệp là
động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông qua tín dụng tài trợ XNK của
ngân hàng mà các doanh nghiệp có vốn để thay đổi dây chuyền công nghệ, hiện
đại hoá máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm,
tạo ra sản phẩm phong phú đa dạng về mẫu mã chủng loại để đáp ứng nhu cầu
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngày càng cao của người dân. Các doanh nghiệp cũng có thể nhập khẩu các mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân hoặc các mặt
hàng phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được hay giá thành còn
cao. Vì vậy, sự phát triển của các doanh nghiệp đã mang lại lợi ích cho người
tiêu dùng.
Hoạt động tài trợ tín dụng của ngân hàng còn giúp tạo công ăn việc làm
cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo nguồn thu ngoại tệ cho ngân
sách nhà nước, góp phần phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước,
giúp mở rộng mối quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới.
1.2.2. Đối với các ngân hàng thương mại.
Tài trợ XNK đóng vai trò quan trọng đối với các ngân hàng thương mại
bởi vì đây là mảng dịch vụ tạo nguồn thu phí và lãi suất lớn nhất trong số các
dịch vụ kinh doanh đối ngoại của ngân hàng, đặc biệt là ở các ngân hàng thương
mại ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Có nhiều loại lãi suất trong
quá trình tài trợ như lãi cho vay thanh toán, lãi chiết khấu chứng từ, lãi vay bắt
buộc (bằng mức lãi quá hạn)…
Thêm vào đó, đây còn là hình thức cho vay nâng cao được tính an toàn
cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán, do vậy nguồn
thu để trả các khoản tài trợ của ngân hàng được ngân hàng quản lý hết sức chặt
chẽ, vì vậy mà tránh được tình trạng xoay vòng vốn, sử dụng vốn không đúng
mục đích của doanh nghiệp trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, vì vậy mà
cũng tránh được rủi ro.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và
thời gian thu hồi vốn nhanh. Do gắn liền với thời hạn thực hiện thương vụ nên
kỳ hạn tài trợ thường ngắn (dưới 1 năm), vì vậy nó phù hợp với kỳ hạn huy
động vốn của ngân hàng, giúp ngân hàng tránh được các rủi ro về thanh khoản.
Thông qua việc cấp tín dụng tài trợ XNK, các ngân hàng có thể kiểm soát các
giao dịch của doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh nghiệp được tài trợ vốn sử
dụng sai mục đích, giúp cho ngân hàng tránh rủi ro tín dụng. Lợi ích quan trọng
khác mà hoạt động tín dụng tài trợ XNK mang lại cho ngân hàng là không
những giúp thắt chặt mối quan hệ bền vững giữa ngân hàng với các doanh
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp kinh doanh XNK mà còn giúp mở rộng hoạt động và nâng cao uy tín của
ngân hàng trên thị trường quốc tế.
Ngoài ra, thông qua hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu ngân hàng
thương mại còn mở rộng được các quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng
nước ngoài, nâng cao uy tín ngân hàng trên thị trường quốc tế, đây cũng là một
hiệu quả cho ngân hàng từ hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Hoạt động tín dụng tài trợ XNK phát triển tạo điều kiện để phát triển các
dịch vụ khác như dịch vụ mở tài khoản, dịch vụ thanh toán quốc tế…
1.2.3. Đối với các doanh nghiệp.
Thông qua hoạt động tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng mà nhu cầu tài
chính cho các thương vụ lớn của các thương nhân được đáp ứng. Trong kinh
doanh quốc tế, có những thương vụ ngoại thương đòi hỏi 1 nguồn vốn rất lớn để
thanh toán tiền hàng mà nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp nhiều khi không
đáp ứng kịp thời cho nhu ccầu thanh toán hàng nhập hoặc chuẩn bị hàng xuất.
Chính nhờ hoạt động tài trợ của ngân hàng mà doanh nghiệp có thể thực hiện
được những hợp đồng lớn này.
Bên cạnh đó, hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp
đồng tăng lên nhờ có nghiệp vụ tài trợ ngoại thương. Đối với doanh nghiệp xuất
khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ, gia công chế
biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghệp nhập khẩu, vốn tài trợ
của ngân hàng giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá cả hạ hơn.
Cả 2 trường hợp này đều giúp tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tín dụng tài trợ XNK cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
tiểu thủ công nghiệp phát triển sản xuất, tăng nhanh sản lượng, đa dạng hoá mặt
hàng xuất khẩu, giúp cho cấc sản phẩm trong nước có thể thâm nhập thị trường
nước ngoài dễ dàng hơn.
Tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng còn giúp doanh nghiệp nâng cao uy
tín trên thị trường quốc tế. Nhờ có bảo lãnh của ngân hàng, các doanh nghiệp có
thể thực hiện các hợp đồng lớn trôi chảy, quan hệ làm ăn với các khách hàng lớn
trên thế giới, từ đó không ngừng nâng cao uy tín doanh nghiệp trên thị trường
quốc tế.
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.3. Các hình thức tín dụng tài trợ XNK của Ngân hàng thương mại Việt
Nam hiện nay.
1.3.1. Tín dụng tài trợ nhập khẩu.
Là khoản tín dụng mà ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để tiến hành
nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liệu… phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Bao gồm một số các hình thức chủ yếu sau:
a. Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
Đây là hình thức thể hiện sự tài trợ của ngân hàng anh cho các nhà nhập
khẩu.
- Điều kiện mở L/C tại các ngân hàng thương mại.
+ Phải có giấy phép kinh doanh XNK, đối với các đơn vị nhập khẩu uỷ
thác phải có hợp đồng uỷ thác nhập khẩu.
+ Đối với những mặt hàng nằm trong danh mục quản lý hàng nhập khẩu
của nhà nước, đơn vị phải xuất trình giấy phép nhập khẩu do bộ thương mại
cấp.
+ Đơn vị phải có tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính ổn
định và có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng.
+ Lô hàng nhập phải có giá hợp lý, đồng thời chứng minh việc nhập lô
hàng trên là hợp lý phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả
năng thanh toán lô hàng.
+ Đơn vị phải có tài sản thế chấp đảm bảo cho giá trị L/C hoặc được bảo
lãnh thanh toán bởi một tổ chức đáng tin cậy.
+ Đối với L/C trả chậm, dư nợ bảo lãnh phải nằm trong hạn mức cho vay
vốn nước ngoài được ngân hàng nhà nước phê duyệt.
- Thẩm định hồ sơ mở L/C:
Sau khi kiểm tra hồ sơ mở L/C sẽ chuyển qua phòng tín dụng thẩm định:
Đánh giá tình hình tài chính, tư cách pháp nhân, mặt hàng nhập khẩu trên thị
trường, thẩm định tài sản thế chấp.
- Quyết định mức ký quỹ mở L/C:
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trên cơ sở thẩm định, ngân hàng quyết định mức ký quỹ L/C. Ký quỹ
L/C được xem là một hình thức bắt buộc tại ngân hàng thương mại. Ký quỹ
nhằm đảm bảo khách hàng nhận hàng và thanh toán L/C. Thông thường mức ký
quỹ cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Khả năng thanh toán của khách hàng, khả năng thanh toán của khách
hàng càng cao mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
+Đối tượng khách hàng: Khách hàng có uy tín với ngân hàng mức ký quỹ
thấp và ngược lại.
+ Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thì mức ký quỹ thường thấp
hơn L/C trả ngay, vì mục đích của L/C trả chậm là để vay vốn nước ngoài, thời
gian khá dài, mức ký quỹ cao sẽ làm ứ đọng vốn của khách hàng.
+ Loại hàng hóa nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động giá
cả hàng hoá trên thị trường, những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trường ổn định và
giá cả ít biến động thì mức ký quỹ có thể thấp
Trên cơ sở kết hợp các yếu tố trên các định mức ký quỹ L/C, ngân hàng
quyết định mức ký quỹ cụ thể. Ký quỹ được thực hiện bằng cách trích tài khoản
ngoại tệ của khách hàng để chuyển vào tài khoản ký quỹ thanh toán L/C, theo
quy định hiện nay thì số tiền ký quỹ được hưởng lãi bằng với lãi tiền gửi thanh
toán. Nếu không đủ số dư trên tài khoản ngoại tệ hoặc đối với các đơn vị nhập
uỷ thác có thể kèm đơn xin mua ngoại tệ nộp tiền đồng để mua ngoại tệ ký quỹ
hoặc có thể làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ mở L/C, hiện nay ở nước ta cho
vay ký quỹ L/C là rất hạn chế.
b. Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập.
Khi nhận được bộ chứng từ từ ngân hàng thông báo L/C, ngân hàng mở
L/C tiến hành kiểm tra chứng từ và đưa ra ý kiến thanh toán, hoặc từ chối thanh
toán. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng dựa vào bộ chứng từ chứ không dựa vào
hàng hoá, nên ngân hàng mở L/C phải kiểm tra chứng từ cẩn thận. Nếu chứng
từ hợp lệ và phù hợp với L/C, ngân hàng sẽ thanh toán tiền ( đối với L/C trả
ngay) và chấp nhận hối phiếu (đối với L/C trả chậm).
Đối với nhà nhập khẩu, khoảng thời gian từ khi thanh toán hàng nhập cho
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đến khi thu hồi được vốn là một khoảng thời gian khá dài, do dó nhà nhập khẩu
cần có khoản tài trợ từ ngân hàng bằng cách vay ngân hàng để thanh toán hàng
nhập khẩu. Theo đó, trước khi nhập hàng khách hàng phải lập phương án sản xuất
kinh doanh mang tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất hoặc kinh
doanh. Đồng thời, khách hàng phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả năng
thanh toán khi đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt cần
ngân hàng tài trợ. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định tính hiệu quả của việc sử
dụng vốn vay và khả năng tài chính, khả năng trả nợ, tài sản thế chấp của khách
hàng… để từ đó quyết định cho vay hay không.
c. Nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh.
Hiện nay các ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp và thực
hiện tái bảo lãnh cho các ngân hàng khác. Các doanh nghiệp muốn vay vốn nước
ngoài thì lập kế hoạch vay vốn nước ngoài đã có sự đồng ý của cơ quan chủ quản
và nằm trong hạn mức vay vốn nước ngoài được ngân hàng nhà nước phê duyệt.
Khi phát sinh nhu cầu thực sự, doanh nghiệp phải lập phương án vay vốn, đã được
cơ quan chủ quản đồng ý và đơn xin vay vốn nước ngoài gửi đến ngân hàng nhà
nước.
Hiện nay có nhiều hình thức bảo lãnh: Bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu,
bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đặt cọc… nhưng thực tế bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, ở nước ta chưa quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng để bảo vệ quyền lợi
của mình. Bảo lãnh vay vốn là hình thức chủ yếu tại các ngân hàng và tái bảo lãnh
cũng ít thực hiện. Bảo lãnh ở nước ta chủ yếu để tài trợ cho nhà nhập khẩu vay
vốn, được thực hiện dưói hình thức sau:
+ Phát hành thư bảo lãnh
+ Mở L/C trả ngay và L/C trả chậm
+ Ký bảo lãnh trên hối phiếu ( Bill of Exchange ) nhận nợ nước ngoài.
+ Ký bảo lãnh trên lệnh phiếu (Promissory Note) nhận nợ nước ngoài.
+ Ký xác nhận bảo lãnh ngay trên giấy nhận nợ do khách hàng (vay nợ) lập
nhận nợ nước ngoài.
Đối với nghiệp vụ tái bảo lãnh hình thức duy nhất thực hiện là phát hành thư
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
bảo lãnh
1.3.2. Tín dụng tài trợ xuất khẩu.
Là khoản tín dụng mà ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để phục vụ
cho hoạt động xuất khẩu, quá trình này bao gồm từ khâu doanh nghiệp dùng khoản
vay này để tiến hành mua nguyên vật liệu, máy móc trang thiết bị, cơ sở vật chất
kỹ thuật cho hoạt động sản xuất để phục vụ cho việc xuất khẩu cho đến khi
doanh nghiệp nhận được tiền thanh toán. Tín dụng tài trợ xuất khẩu có một số
hình thức sau:
a. Tài trợ vốn lưu động để thu mua, chế biến sản xuất hàng xuất khẩu theo
đúng L/C quy định, trên cơ sở hợp đồng ngoại thương đã ký kết, hoặc đơn đặt
hàng.
Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng, thường được áp dụng
trong trường hợp Ngân hàng tài trợ là ngân hàng thanh toán cho L/C xuất, nhà
xuất khẩu trình bộ chứng từ và được thanh toán tại Ngân hàng. Để giám sát và
kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay theo đúng mục đích cho vay, ngân hàng
thường thực hiện tài trợ như sau:
- Khi cho vay ngân hàng yêu cầu nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất
định cùng với số tiền cho vay của ngân hàng để thu mua hàng hoá, chế biến, sản
xuất hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để ngân hàng tiếp
tục cho vay đến khi bằng 100% giá trị hàng sản xuất. Tuỳ vào từng đối tượng
khách hàng mà Ngân hàng đưa ra những mức vay khác nhau. Thông thường
ngân hàng cho vay khoảng 70% trị giá lô hàng xuất khẩu.
- Sau khi giao hàng xong, nhà xuất khẩu hoàn tất bộ chứng từ phù hợp
với những điều kiện quy định trong L/C nộp vào ngân hàng để xin thanh toán
tiền. Trên hối phiếu đòi nợ, ngân hàng cho vay (ngân hàng thông báo) sẽ là
người hưởng lợi trực tiếp. Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy hợp lệ thì
chuyển ra nước ngoài đòi nợ ngân hàng mở L/C. Khi nhận được điện chuyển
tiền từ ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo L/C ghi có trên tài khoản cho
vay để thu nợ.
- Nếu giữa ngân hàng mở L/C và ngân hàng thông báo L/C là đại lý có
mở tài khoản tiền gửi cho nhau, thì việc thực hiện thanh toán bộ chứng từ để thu
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nợ được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng hơn. Từ đó ngân hàng có
thể tài trợ cho khách hàng với mức lãi suất ưu đãi, thấp hơn mức lãi suất bình
thường.
- Trong quá trình cho vay, rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng nếu như
sau khi được tài trợ, doanh nghiệp không xuất được hàng, hay thanh toán, hoặc
khách hàng không dùng số tiền trên vào mục đích xuất hàng như đã cam kết với
ngân hàng. Chính vì vậy, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có các
đảm bảo nhất định cho khoản vay của mình.
b. Tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất khẩu
Từ lúc giao hàng và nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C, cho
đến khi được ghi có trên tài khoản phải trải qua một thời gian nhất định để xử lý
và luân chuyển chứng từ. Nếu nhà xuất khẩu cần tiền để có thể thương lượng
với ngân hàng để chiết khấu bộ chứng từ, hoặc ứng trước tiền hàng tại ngân
hàng đã được chỉ định rõ trong L/C, hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào, hình thức tài
trợ này được tiến hành sau khi giao hàng. Để đảm bảo việc thu hồi nợ được dễ
dàng, nhanh chóng, ngân hàng thương mại thường yêu cầu các L/C hàng xuất
của khách hàng phải được thông báo qua ngân hàng, ngân hàng tài trợ vừa là
ngân hàng thông báo, hoặc vừa là ngân hàng thanh toán L/C. Tài trợ vốn trong
thanh toán thường được thể hiện dưới các hình thức sau:
* Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu
Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể
thương lượng với ngân hàng, thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước
tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy, đối với nhà xuất khẩu, L/C
không những là công cụ đảm bảo thanh toán mà là công cụ đảm bảo tín dụng.
Chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu là hình thức ngân hàng tài trợ nhà xuất
khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ xuất
khẩu hoàn hảo được người xuất khấu xuất trình. Trong đó ngân hàng mở L/C
phải có uy tín trên thị trường quốc tế và có quan hệ giao dịch thường xuyên với
ngân hàng chiết khấu. Khách hàng vay vốn phải có tình hình sản xuất kinh
doanh và tình hình tài chính ổn định, có khả năng thanh toán, có uy tín với ngân
hàng.
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ phía khách hàng, ngân hàng thẩm định về mục
đích vay, tình hình tài chính, khả năng thanh toán… kiểm tra tính hợp lệ và sự
phù hợp trên bề mặt chứng từ so với các điều khoản đã ghi trong L/C để có căn
cứ chính xác trước khi quyết định cho vay. Số tiền chiết khấu tuỳ thuộc mỗi
ngân hàng, nhưng thường không quá 90% giá trị hối phiếu.
Có 2 hình thức chiết khấu: chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu được
phép truy đòi.
- Chiết khấu miễn truy đòi (chiết khấu đóng): Ngân hàng mua lại bộ
chứng từ xuất khẩu hoàn hảo của người xuất khẩu. Giá mua sẽ thấp hơn giá của
lô hàng được xác định trong bộ chứng từ, do ngân hàng tính trừ lại chi phí chiết
khấu và thời gian cần thiểt trung bình để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài.
Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là người xuất khẩu bán hẳn bộ chứng từ cho
ngân hàng, nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm thu tiền và
quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng. Ở Việt Nam, các
ngân hàng ít sử dụng hình thức chiết khấu này do có nhiều tiềm ẩn nhiều rủi ro.
- Chiết khẩu được phép truy đòi (chiết khấu mở): Ngân hàng thực hiện
việc cho vay trên cơ sở người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Thời
gian cho vay được tính bằng thời gian cần thiết để đòi tiền người nhập khẩu
nước ngoài. Khi đó trách nhiệm của người xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân
hàng đòi được tiền từ người nhập khẩu. Khi chiết khấu được tính dưới hình thức
lãi chiết khấu, tính theo ngày thì mức phí dĩ nhiên thấp hơn trong trường hợp
miễn truy đòi vì rủi ro ngân hàng phải chịu thấp hơn trường hợp trên.
Ở hình thức chiết khấu này, ngân hàng vẫn có quyền truy đòi với người
xuất khẩu khi bộ chứng từ gửi đi không thu được tiền. Tuy nhiên, sẽ có thể hạn
chế rủi ro tốt hơn, trong trường hợp ngân hàng mua lại bộ chứng từ được lập ra
trên cơ sở yêu cầu của một thư tín dụng.
* Ứng trước tiền thanh toán tiền hàng xuất khẩu:
Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ điều kiện chiết khấu, có những sai
sót, Ngân hàng không đồng ý chiết khấu, thì nhà xuất khẩu có thể yêu cầu Ngân
hàng ứng trước tiền hàng, thông thường khoảng 50% - 60% giá trị hàng xuất
Ngân hàng thực hiện thu nợ bằng cách gửi bộ chứng từ ra nước ngoài để
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đòi nợ, trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi chứng từ đòi tiền mà không nhận
được báo có của Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng tự động ghi nợ tài khoản
tiền gửi của khách hàng. Nếu trên tài khoản của khách hàng không đủ tiền trong
vòng 7 ngày làm việc Ngân hàng sẽ chuyển số tiền chiết khấu, hoặc ứng trước
sang nợ quá hạn. Khi được thanh toán từ phía Ngân hàng nước ngoài, sẽ khấu
trừ trực tiếp khoản tiền vay cùng các chi phí khác có liên quan.
1.4. Các nhân tố tác động đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK.
Cũng như các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng tài trợ
XNK của ngân hàng thương mại chịu sự tác động của nhiều yếu tố, những yếu
tố này có thể mang đến những kết quả tích cực nhưng cũng có thể gây ra những
kết quả tiêu cực cho cả hai bên là bên tài trợ và bên nhận tài trợ. Nếu là kết quả
tích cực nó có thể thúc đẩy sự phát triển và làm tăng tính hiệu quả của khoản tín
dụng, còn nếu kết quả là không tích cực nó sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt
động tín dụng. Các yếu tố tác động đến hoạt động này có thể chia làm 2 nhóm:
Là các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài
1.4.1. Các nhân tố bên trong.
Là các nhân tố thuộc thuộc về các bên có liên quan trực tiếp đến khoản
tín dụng. Cụ thể ở đây là doanh nghiệp và ngân hàng.
a. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp.
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp được thể hiện thông qua các chỉ
tiêu như : quy mô vốn chủ sở hữu, hệ số vốn tự có, hệ số nợ, khả năng sinh
lợi… Đây là cơ sở ban đầu để ngân hàng quyết định có cấp tín dụng cho ngân
hàng hay không và hạn mức của khoản tín dụng là bao nhiêu.
- Uy tín hay vị trí của doanh nghiệp trên thị trường: Đây chính là một
trong những yếu tố tiên quyết để ngân hàng có xem xét có thực hiện khoản tín
dụng này hay không.
- Chiến lược, chính sách kinh doanh của doanh nghiệp: Thông thường để
nhận được các khoản cho vay từ phía ngân hàng, doanh nghiệp ngoài việc cung
cấp các giấy tờ chứng minh về tình hình tài chính, về tài sản thế chấp, họ còn
phải nộp cho ngân hàng các bản đề án kinh doanh với mục đích làm tăng tính
SV: Lê Quang Tuân (TTQTC – K7)
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét