Ngoài ra, còn nhiều bài viết công bố trên các tạp chí: Tạp chí Triết
học, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Tạp chí Văn hóa,
Tạp chí Văn nghệ, Tạp chí Dân tộc học, của nhiều tác giả là các nhà
nghiên cứu văn hóa nổi tiếng như: Trần Văn Giàu, Phạm Văn Đồng,
Trịnh Gia Bàn…
Các công trình nghiên cứu trên đã khái thác văn hóa nói chung và
văn hóa đời sống trên nhiều bình diện khác nhau. Đó là những tư liệu
quý để tác giả khóa luận kế thừa thực hiện thành công đề tài của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Góp phần khái quát được sự “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa đời sống vào công cuộc xây dựng nếp sống văn hóa mới ở
huyện Anh Sơn, Nghệ An hiện nay”
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chỉ rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa đời sống mới.
Nêu rõ thực trạng nếp sống văn hóa mới trong thời gian vừa qua
trên tại địa bàn huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.
Rút ra được một số kinh nghiệm bước đầu trong quá trình thực hiện
nếp sống văn hóa mới ở huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An hiện nay.
5. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh đời sống văn hóa mới. Lý luận và thực tiễn
công cuộc xây dựng nếp sống mới ở huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An hiện
nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Phép biện chứng duy vật về xã hội;
Đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa.
Phương pháp cụ thể: Khóa luận là sự kết hợp các phương pháp:
Điền dã; Phương pháp logic-lịch sử; Phương pháp phân tích-tổng hợp;
Phương pháp khái quát hóa.
7. Phạm vi đề tài
5
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về nếp sống văn hóa mới. Quá trình nhận thức, vận dụng
tư tưởng của Người của Đảng bộ huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An trong
xây dựng nếp sống văn hóa mới hiện nay.
8. Đóng góp khoa học
Về lý luận: Khóa luận là sự khái quát “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa đời sống vào công cuộc xây dựng nếp sống văn hóa
mới ở huyện Anh Sơn, Nghệ An hiện nay”
Về thực tiễn: Khóa luận có thể trở thành tài liệu tham khảo cho
những người học tập, nghiên cứu có nội dung liên quan.
9. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm 2 chương: Chương 1, Những quan điểm cơ bản về nếp sống
văn hoá mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh; Chương 2, Huyện Anh Sơn
với việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về nếp sống văn hóa mới hiện
nay.
B PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những quan điểm cơ bản về nếp sống văn
hoá mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1 Một số khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm tư tưởng
Trong lịch sử phát triển của loài người có rất nhiều nhà tư tưởng.
Tư tưởng, học thuyết của họ đã và đang có giá trị rất lớn cho sự phát
triển của loài người.
Vậy tư tưởng là gì?
Khi định nghĩa tư tưởng đã có rất nhiều người định nghĩa tư tưởng
khác nhau.
Theo tư tưởng bách khoa Việt Nam, nhà xuất bản Bách khoa Hà
Nội năm 2005 thì: “Tư tưởng là kết quả khái quát nhất, khả năng của sự
phát triển tri thức trước đó và được dùng làm nguyên tắc để giải thích
các hiện tượng”.
6
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “mọi tư tưởng đều rút
ra từ kinh nghiệm. Chúng là sự phản ánh đúng đắn hay phản ánh xuyên
tạc hiện thực”. Nhưng tư tưởng không chỉ đơn thuần sự phản ánh với
khách quan. Trên cơ sở phản ánh thế giới khách quan, tư tưởng xác định
con đường để cải tạo thế giới. Vì vậy, nội dung của bất kì tư tưởng nào
cũng bao hàm những mục đích và những nhiệm vụ của hành động thực
tiễn. Đó là sự khác nhau căn bản giữa tư tưởng và các hình thức phản
ánh khác. Sau khi xuất hiện, tư tưởng có tính độc lập tương đối và ảnh
hưởng tích cực trở lại sự phát triển của hiện thực. Những tư tưởng khác
nhau có tác động tới hiện thực theo những hướng khác nhau. Tư tưởng
xưa nay không thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi của trật tự thế
giới cũ. Tư tưởng nói chung không thể thực hiện được gì hết. Muốn thực
hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng được lí luận áp dụng
vào thực tiễn.
Theo giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia năm 2009 thì: “khái niệm “tư tưởng” ở đây không phải dùng
với nghĩa tinh thần tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng
đồng, mà với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận
điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và
phương pháp luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một
giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và
trở lại chỉ đạo hoạt động, cải tạo hiện thực”[7; 11]
1.1.2 Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong cuộc đời hơn 60 năm chiến đấu cho lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã lập nên một sự nghiệp to lớn,
trong đó có sự nghiệp lí luận. Di sản tư tưởng lí luận Người để lại được
Đảng và nhân dân ta định danh là “tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Trên cơ sở nghiên cứu của các nhà khoa học, Đại hội Đại biểu
Toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4- 2001), xác định
khá toàn diện và có hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái
niệm tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
7
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại”[6;
22].
Dựa trên định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản, kế thừa thành tựu các định nghĩa tư
tưởng Hồ Chí Minh của Việt Nam trong thời gian qua, Giáo trình Tư
tưởng Hồ Chí Minh, xuất bản tháng 2/2009 của Bộ giáo dục và đào tạo
đã nêu lên định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là khá hoàn thiện
nhất cho đến hiện nay: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người”[7; 14].
Dù định nghĩa theo cách nào tư tưởng Hồ Chí Minh đều được
nhìn nhận với tư cách là một hệ thống lí luận. Bao gồm các nội dung chủ
yếu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và
phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền
thống của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi cuả cách mạng Việt
Nam trong gần 80 năm qua, tiếp tục soi sáng con đường cách mạng Việt
Nam trong thời gian tới.
Tất cả những nội dung trên là một bước tiến mới trong nhận thức
của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh, làm định hướng cho các nhà nghiên
8
cứu tiếp tục đi sâu tìm hiểu về tư tưởng của Người. Đặc biệt là xác định
nội dung, quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam hành động cho toàn Đảng, toàn dân ta. Hồ Chí
Minh đã xây dựng được hệ thống lí luận toàn diện về cách mạng Việt
Nam phù hợp với thực tiễn của đất nước và dòng chảy thời đại.
Thực tiễn vừa qua của cách mạng Việt Nam và từ thực tiễn của
công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nền tảng của tư tưởng, làm
kim chỉ nam cho mọi hành động của cách mạng Việt Nam, và giữ vị trí
chỉ đạo đời sống tinh thần, xã hội của nhân dân ta.
1.1.3 Khái niệm văn hoá
Khái niệm văn hóa trên thực tế là rất rộng. trong tiếng Việt, từ văn
hóa có nhiều cách hiểu, cách dùng khác nhau. Bên cạnh cách hiểu văn
hóa theo nghĩa thông thường để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống
(nếp sống văn hóa), hay theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển
của một giai đoạn, theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những
sản phẩm tinh vi hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao
động… Tuy nhiên, ngay cả cách hiểu rộng này trên thế gới cũng có
hàng trăm định nghĩa khác nhau.
Từ văn hóa được bắt nguồn từ Châu Âu được dịch từ danh từ
Lultere của tiếng La tinh có nghĩa là vun trồng, chăm bón, cải thiện. Còn
theo nghĩa tiếng Hán, văn hóa được dùng theo nghĩa văn trị, tức là cách
cai trị theo hình thức đẹp đẽ kết hợp với giáo hóa… Để định nghĩa được
khái niệm văn hóa, trước hết cần xác định được đặc trưng cơ bản của nó.
Đó là những nét tiểu biểu, riêng biệt cần và đủ để phân biệt khái niệm
văn hóa với những khái niệm khác.
Taylos – nhà nhân loại học đầu tiên của nước Anh cho rằng: “Văn
hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm: tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, pháp luật, phong tục và cả những năng lực, thói quen mà con
người đạt được trong xã hội”[5; 2].
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhà văn hóa lớn của nước ta cho
rằng: “theo nghĩa hẹp, văn hóa thường được hiểu như một lĩnh vực của
9
hoạt động và sinh hoạt xã hội bao gồm các hoạt động văn hóa, nghệ
thuật, thông tin đại chúng (phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản…),
thư viện, câu lạc bộ, bảo tồn, bảo tàng… Theo nghĩa rộng, nói một cách
đơn giản, văn hóa là tất cả những gì không phải thiên nhiên, nghĩa là tất
cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp nhất
đến con người”[3; 678].
Trần Ngọc Thêm phân tích cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay
(coi văn hóa như là một tập hợp, như là hệ thống giá trị, như hành động,
như thuộc tính xã hội…) đã đưa ra khái niệm văn hóa như sau: “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thưc tiễn trong sự tương tác
của con người với môi trường tự nhiên và xã hội”[13; 10].
Xét về thực chất, văn hóa là một giá trị mang tính phổ quát, tổ hợp
các yếu tố chân, thiện, mỹ, vì thế văn hóa bao giờ cũng là lý tưởng và
mục tiêu mà loài người vươn tới.
1.1.4 Khái niệm văn hoá của Hồ Chí Minh
Trong mục đọc sách ở phần cuối tập “Nhật ký trong tù” lần đầu tiên
Hồ Chí Minh đưa ra một định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng của đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[19; 431].
Tính hiện đại trong quan niệm Hồ Chí Minh về văn hóa là ở chỗ nó
khắc phục được tính phiến diện trong quan niệm lâu nay của chúng ta về
văn hóa. Văn hóa không chỉ là một hiện tượng tinh thần tách rời đời
sống vật chất mà bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
10
Như vậy, tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành
xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, từ sự kế thừa và phát triển những giá
trị văn hóa dân tộc và nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác-Lênin.
1.1.5 Khái niệm nếp sống văn hóa
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, tập 3, nhà xuất bản từ điển bách
khoa Hà Nội, 2003, thì nếp sống văn hóa là: “sự biểu hiện văn hóa cụ
thể của lối sống, là văn hóa ứng xử của con người đối với thiên nhiên,
xã hội và cộng đồng. Khi nói đến nếp sống văn hóa tức là nhấn mạnh
đến mặt văn hóa của nếp sống, ở những chuẩn mực khuôn mẫu ứng xử
của xã hội mà mỗi cá nhân đã tự ý thức được, ở các hoạt động ổn định,
thường xuyên, thành “nếp” trong đời sống hằng ngày.
Xây dựng nếp sống văn hóa phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế -
xã hội, vào truyền thống, vào sự phổ biến và giáo dục văn hóa, đặc biệt
phụ thuộc vào định hướng lý tưởng của mỗi nền văn hóa và mức sống
thực tế của người dân.
1.2 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nền văn hoá
mới
1.2.1 Cơ sở khách quan
1.2.1.1 Văn hóa truyền thống dân tộc
Việt Nam là một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời, được
hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước, có bản sắc riêng, trở thành nguồn nuôi dưỡng tinh thần cho
dân tộc, nguồn sống mãnh liệt giúp cho dân tộc ta chiến thắng âm mưu
đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược.
Nói về văn hóa của truyền thống dân tộc Việt Nam, trước hết phải
nói đến văn hóa lấy nhân nghĩa làm gốc, như Nguyễn Trãi đã nói: Phàm
mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc. Nên công to phải lấy nhân
nghĩa làm đầu. Đó là một nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề cao
trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với gia đình, làng, nước, cộng
đồng. Văn hóa đó dạy cho con người không được quên cội nguồn, đất tổ
của mình.
11
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa khoan dung, hòa nhập. Nhờ
có tư duy khoan dung, hòa nhập, không kỳ thị nên nền văn hóa Việt
không ngừng thâu hóa, Việt hóa những giá trị văn hóa từ bên ngoài để
thăng hoa thành một nền văn hóa phong phú, đa dạng và độc đáo.
Những yếu tố tích cực, hợp lý của Nho, Phật, Lão vào Việt Nam đều
được người Việt tiếp nhận, cùng tồn tại bổ sung cho nhau. Nho cần thiết
cho an dân trị quốc. Phật thỏa mãn cho nhu cầu tâm linh của con người.
Lão đưa con người trở về với thiên nhiên, giao hòa cùng cảnh vật, thoát
ra ngoài mọi ràng buộc của danh lợi. Nếp tư duy trung hóa đó tạo cho
con người Việt Nam biết kết hợp cá nhân, xã hội, thiên nhiên, để có
được hành vi ứng xử hài hòa.
Tất cả những đặc trưng đó làm nên bản sắc và giá trị của văn hóa
Việt Nam. Nó thấm sâu trong tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Tất
Thành qua những năm tháng tắm mình trong nền giáo dục quốc học và
quê hương, trở thành hành trang quý báu đối với Người trên hành trình
cứu nước.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trên quê hương có truyền thống văn
hóa lâu đời. Chính những truyền thống văn hóa và con người Việt Nam
là căn nguyên dẫn dắt Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp
thu và lý giải chủ nghĩa Mác-Lênin từ truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc, đó là nền tảng vững chắc cho sự hình thành tư tưởng văn hóa
của Người.
1.2.1.2 Tinh hoa văn hóa của nhân loại
• Tinh hoa văn hóa phương Đông
Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình nhà Nho, gần gũi với
nhân dân, từ nhỏ đã được hấp thụ một nền giáo dục hán học và quốc học
sâu sắc. nên đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng văn hóa của Người.
Nói đến văn hóa Phương Đông, trước hết là Nho giáo, đặc biệt là
Nho giáo thời cổ đại. Hồ Chí Minh tiếp thu có phê phán những giá trị
tích cực mang tính nhân văn nhân đạo sâu sắc. Học thuyết của Khổng
Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức, văn hóa của mỗi cá nhân.
Những điều răn của học thuyết này đã trở thành châm ngôn hành động
12
và chuẫn mực của không ít dân tộc của Phương Đông về “nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín”.
Hồ Chí Minh là người hiểu sâu sắc Khổng giáo. Người đã nhận
thức được những mặt tích cực của giáo lý này để phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng. Người nói “tuy Khổng tử là phong kiến và tuy trong học
thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay
trong đó thì ta nên học”. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người
cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu
của các đời trước để lại”[22; 46].
Bên cạnh học thuyết Khổng Tử thì tư tưởng Phật giáo cũng ảnh
hưởng rất lớn đến tư tưởng của Người. Phật giáo vào Việt Nam rất sớm,
thoạt đầu từ con đường Ấn Độ, sau đó từ Trung Quốc truyền vào. Bước
vào thời kỳ đất nước độc lập (thế kỷ X), Phật giáo có điều kiện để phát
triển và ngày nay đã trở thành tôn giáo chính của Việt Nam. Bên cạnh
những hạn chế thì Phật giáo có tính nhân văn sâu sắc như tư tưởng vị
tha, từ bi bác ái, mong muốn xây dựng một cuộc sống “thẩm mỹ, chí
thiện, bình đẳng, yên vui, no ấm” cho dân chúng.
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và tiếp nhận tinh hoa nhân ái
của đạo Phật. Người nói: “Đức Phật là đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn,
Người phải hi sinh tranh đấu diệt lũ ác ma”[21; 197].
Tư tưởng nhân văn của đạo Phật đã góp phần hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa và nhân văn cao cả.
• Tinh hoa văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh tiếp nhận tinh hoa văn hóa phương Tây sau khi đã
tiếp nhận văn hóa phương Đông đến một trình độ nhất định, rất cơ bản.
Việc tiếp xúc trực tiếp với văn hóa phương Tây không phải thông qua
con đường chính thống của nhà trường mà bằng con đường tìm hiểu học
hỏi trong quá trình thâm nhập quần chúng lao động mở rộng giao du với
các tầng lớp hoạt động văn hóa trong các chuyến hành trình khảo sát ở
nhiều nước và đặc biệt là trong việc thường xuyên lui tới đọc sách trong
những thư viện lớn.
13
Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu tinh hoa của văn hóa phương Tây
trước hết là lý tưởng cách mạng dân chủ tự do tiến bộ của cách mạng tư
sản dân quyền Pháp năm 1789, từ đó tiếp nhận lý tưởng của cách mạng
tháng 10 Nga năm 1917 trong thực tế là một bước phát triển mới cao
hơn cả về lượng và chất.
Ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh chủ yếu sống
ở châu Âu đặc biệt là Pari – trung tâm văn hóa lớn của nhân loại.
Nguyễn Ái Quốc có đủ thời gian và điều kiện để chọn lọc, tiếp nhận
những tinh hoa của nền văn minh rực rỡ đó, vận dụng vào sự nghiệp của
cách mạng dân tộc dân chủ mình và phục vụ các dân tộc khác cùng cảnh
ngộ.
* Cùng với thời gian tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây. Chủ
tịch Hồ CHí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đến với học thuyết
đúng đắn mà bấy giờ Người khao khát tìm kiếm. Người nói: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ và tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta!”[23; 127].
Chủ nghĩa cộng sản giải phóng con người, giải phóng dân tộc bị áp
bức nô lệ, giải phóng giai cấp xây dựng thế giới mới tự do, bình đẳng,
bác ái, con người tiến tới xã hội văn minh không có áp bức, bất công, đó
là xã hội cộng sản. Chính lý tưởng này đã ảnh hưởng rất lớn đến tư
tưởng tưởng nói chung và tư tưởng văn hóa của Người nói riêng. Người
khẳng định: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên lý luận
Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[23; 128].
Và chỉ có chủ nghĩa Mác–Lênin mới đưa con người đi tới một xã
hội văn minh tiến bộ, đưa văn hóa Việt Nam lên vị trí xứng đáng trong
nền văn hóa thế giới.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét