Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM

PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



4
www.vcbs.com.vn
Trong khi thuốc nhập khẩu tập trung vào dòng thuốc biệt dược có giá trị cao
thì thuốc sản xuất trong nước chủ yếu là thuốc gốc, thông thường, đơn giản,
gần như không có thuốc chuyên khoa, đặc trị.
Bảng 1 :Cơ cấu thuốc nhập khẩu và thuốc sản xuất

Cơ cấu
thuốc nhập khẩu
Cơ cấu thuốc
sản xuất trong nước
Chống ung thư
2%
0,0001%
Hormon
5%
0,60%
Tim mạch
8%
0,96%
Mắt
3%
3%
Chống dị ứng
3%
2%
Tiêu hóa
9%
5%
Hô hấp
4%
6%
Ngoài da
3%
5%
Hạ nhiệt, giảm đau, kháng viêm
7%
10,40%
Vitamin
4%
11,80%
Kháng sinh
31%
21%
Khác
16%
29%
Nguồn: Cục quản lý Dược

Có thể thấy cơ cấu thuốc sản xuất là mất cân đối do các nhà sản xuất trong
nước chủ yếu khai thác các sản phẩm có công nghệ đơn giản mang lại lợi
nhuận cao như vitamin, thuốc hạ nhiệt, giảm đau.

Phân theo kênh phân phối
Thuốc tân dược có một mạng lưới phân phối khá rộng khắp từ các công ty Cổ
phần, công ty Trách nhiệm hữu hạn cho tới các quầy thuốc thuộc trạm Ytế xã.
Hai kênh phân phối chủ yếu vẫn là thông qua bệnh viện và nhà thuốc. Theo số
liệu của IMS năm 2005, 61% thuốc được sử dụng trong bệnh viện và 71%
thuốc phân phối ở nhà thuốc là thuốc sản xuất trong nước. Do có lợi thế về giá
thành rẻ cùng với chất lượng được cải thiện, thuốc nội chiếm được thị phần
khá đáng kể trong bệnh viện và nhà thuốc. Tuy được sử dụng ít hơn nhưng
thuốc nhập khẩu lại chiếm tới 85% giá trị thuốc được sử dụng trong bệnh
viện. Đây là bằng chứng cho thấy công nghiệp dược Việt Nam vẫn rất thiếu
các lọai thuốc đặc trị giá trị cao.

Phân theo khu vực địa lý
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai khu vực chính tiêu thụ thuốc của cả
nước, chiếm 76% giá trị. Trong đó, Tp.Hồ Chí Minh là thị trường trọng điểm
với lượng tiêu thụ lên tới 55% sản lượng thuốc sử dụng cả nước, trong khi đó
lượng tiêu thụ ở Hà Nôi chỉ bằng ½, chiếm khoảng 21% thị phần. Thị trường
trong Nam cũng là thị trường trọng điểm của các công ty dược lớn nhất cả
nước như DHG, Vinapharm và các hãng dược phẩm nước ngoài.
Thuốc nội và ngoại
được phân phối
chủ yếu qua bệnh
viện và nhà thuốc,
trong đó thuốc
ngoại chiếm tới
85% giá trị…
Hà nội và TPHCM
là thị trường
chính của tân
dược, chiếm
76% lượng
thuốc sử dụng
của cả nước….
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



5
www.vcbs.com.vn

Phân theo nhà cung cấp
Thuốc tân dược được cung cấp từ hai nguồn: sản xuất trong nước và nhập
khẩu. Các nhà sản xuất nội địa hàng đầu như DHG, Vinapharm, Domesco,
Dược phẩm TW … chiếm phần lớn thị trường nội địa. Thuốc nhập khẩu phần
lớn được nhập về cũng bởi các công ty dược trong nước đó. Theo thống kê
2007 của Bộ thương mại, 10 nhà nhập khẩu hàng đầu chiếm 76,5% lượng
thuốc nhập của toàn ngành. Trong đó thị phần chính thuộc về ba công ty là
Dược liệu TW2, công ty Dược Tp.Hồ Chí Minh, công ty XNK Ytế 2 chiếm lần
lượt 29,2%; 10,1% và 8,4%. Thuốc ngoại thành phẩm được nhập chủ yếu từ
các nước có nền công nghiệp dược phát triển như Pháp, Hàn quốc, Ấn Độ,
Thụy Sĩ… Pháp chiếm vị trí hàng đầu với chủ yếu là các thuốc biệt dược như
thuốc tâm thần, tim mạch, giảm đau, thuốc chữa lao phổi. Thuốc generics
nhập chủ yếu từ Ấn Độ với 2 loại chính là kháng sinh và tiêu hóa.

Cơ cấu nhập khẩu tân dược theo
doanh nghiệp
Cơ cấu thị trường nhập khẩu tân dược


Nguồn: Cục quản lý Dược
Nguồn: Cục quản lý Dược

Cơ cấu thị trường thuốc theo vùng
Nguồn: IMS, 2006

Thuốc tân dược
được sản xuất và
nhập khẩu chủ
yếu bởi các công
ty dược Việt
Nam…
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



6
www.vcbs.com.vn
ĐÔNG DƯỢC

Trong Y học Việt Nam, thuốc đông y đóng vai trò quan trọng trong đời sống
sinh hoạt hàng ngày, thuốc đông y được sử dụng lâu đời và rộng rãi. Tuy
nhiên theo thống kê, đông dược chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ từ 0,5%- 1% giá
trị thuốc sử dụng hàng năm. Số liệu thống kê về giá trị sử dụng cũng như nhu
cầu sử dụng của đông dược là kém chính xác khi lĩnh vực này hầu như chưa
được quản lý chặt chẽ. Do vậy trên số liệu thực tế còn cao hơn nhiều.

Trong thói quen sử dụng đông dược của người Việt Nam, thuốc Bắc (nguyên
liệu là các thảo dược bắt nguồn từ Trung Quốc) được tin dùng rộng rãi nhất.
Điều này được phản ánh qua việc 85% nguyên liệu chế biến đông dược được
nhập từ Trung Quốc với kim ngạch nhập khẩu trung bình 1 triệu USD/ năm.
Hiện nay, Việt Nam đã trồng được một số dược liệu nhưng giá trị cũng như
khối lượng không đáng kể.

Hệ thống sản xuất, phân phối thuốc đông dược rộng lớn và không được kiểm
soát đầy đủ. Do đặc trưng của thuốc đông dược chế biến không đòi hỏi công
nghệ cao nên thuốc đông dược được sản xuất và phân phối bởi các nhà máy
lớn cũng như các cơ sở tư nhân nhỏ lẻ. Theo thống kê sơ bộ, cả nước có 45
Viện y học dân tộc, 242 Bệnh viện đa khoa, 4000 tổ chẩn trị, 10.000 cơ sở Y
dược học cổ truyền. Tuy nhiên, hiện nay chưa có sản phẩm thuốc đông dược
của Việt Nnam đăng ký tiêu chuẩn GMP-WHO. Điều này cho thấy các cơ sở
sản xuất thuốc đông dược đạt tiêu chuẩn còn rất thiếu, thị trường đông dược
rất cần một sự chuẩn hóa.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trong thời gian gần đây làm tăng thu nhập
cá nhân là nguyên nhân làm gia tăng nhu cầu sử dung đông dược. Người Việt
Nam sử dụng đông dược không chỉ để chữa bệnh mà còn để bồi bổ sức khỏe
và phần lớn cho rằng sử dụng đông dược lâu dài có lợi chứ không có hại như
Tây y. Chính vì vậy, tiềm năng cho đông dược nhất là đông dược chất lượng
cao rất lớn.
GIÁ THUỐC

Từ năm 2006 trở lại đây giá thuốc liên tục gia tăng do chi phí giá nguyên liệu
đầu vào trên thế giới liên tục tăng. Chỉ riêng trong quý 1/2008, giá thuốc tăng
7.73% do giá các nguyên liệu sản xuất kháng sinh nhập khẩu tăng 14%-16%,
giá nguyên liệu sản xuất thuốc bổ, giảm đau, chống viêm tăng 2%-9%, giá
bao bì tăng 30% Giá thuốc ngoại thường cao hơn thuốc nội có cùng công
dụng, nguyên nhân là do chi phí thuế nhập khẩu và chi phí đầu vào sản xuất
….Giá trị sử dụng
thuốc đông dược
chiếm khoảng
0,5% - 1% ….
Giá thuốc có xu
hướng tăng
nhanh trong thời
gian gần đây….
Thuốc đông dược
chưa được tiêu
chuẩn hoá…
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



7
www.vcbs.com.vn
thuốc ngoại thường cao hơn Việt Nam. Bên cạnh đó nhu cầu dùng thuốc ngoại
do tâm lý dùng thuốc ngoại tốt hơn thuốc nội của người dân đã vô hình đẩy
giá thuốc lên. Khâu quản lý giá thuốc không được giám sát chặt chẽ cũng làm
cho nhập khẩu tăng do các doanh nghiệp tự ý kê thêm các chi phí như chi phí
hoa hồng, tiếp thị vào giá thuốc. Từ 2/4 Bộ Y tế không cho các doanh nghiệp
tăng giá thuốc đến hết tháng 6/2008 khiến cho 1 số doanh nghiệp sản xuất
trong nước không thể bù đắp được chi phí sản xuất và bán hàng. Trong thời
gian tới giá thuốc sẽ tăng tuy nhiên nhà nước vẫn tiếp tục quản lý chặt chẽ
những biến động tăng giá thuốc.
Tốc độ tăng trưởng giá dược phẩm
8.40%
6.60%
12.64%
16.37%
4.90%
4.30%
5.12%
7.73%
9.50%
9.10%
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
12.00%
14.00%
16.00%
18.00%
2004 2005 2006 2007 Q1/2008
Tốc độ tăng CPI Tốc độ tăng CPI nhóm dược phẩm Y tế

Nguồn: Tổng cục thống kê

QUẢN LÝ THUỐC GIÁ

Mặc dù theo đánh giá của WHO, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ
thuốc giả thấp và có khả năng loại bỏ được thuốc giả, thuốc kém chất lượng.
Tuy nhiên tỷ lệ thuốc giả được phát hiện đều tăng từ 2001 đến nay. Không chỉ
có thuốc tân dược bị làm giả mà cả thuốc đông dược cũng bị làm giả. Năm
2001 tỷ lệ thuốc giả là 0,03%; năm 2006 là 0,13%, năm 2007 là 0,17%. Tỷ lệ
lô thuốc mẫu không đạt tiêu chuẩn chất lượng cũng thường xuyên dao động ở
mức 3 - 3,3%
1
. Do lợi nhuận từ thuốc giả, thuốc kém phẩm chất cao và người
tiêu dùng Việt Nam vẫn chưa có thói quen mua thuốc theo đơn của bác sỹ nên
nạn thuốc giả và thuốc kém chất lượng vẫn hoành hành. Bên cạnh đó hệ
thống kiểm tra chất lượng thuốc đầu vào vẫn chưa đủ qui mô và trang thiết bị
cần thiết để kiểm tra do công nghệ làm thuốc giả ngày càng tinh vi đến nỗi
chính nhà thuốc và nhà sản xuất cũng rất khó phát hiện ra. Thuốc giả không
chỉ xuất hiện ở những vùng sâu, vùng xa mà còn tập trung ở những thành phố


1
Nguồn Cục quản lý dược phẩm
…Thói quen dùng
thuốc không kê toa
là một trong
những nguyên
nhân làm cho
thuốc giả phát
triển…
…Việt Nam có tỷ
lệ thuốc giả thấp…
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



8
www.vcbs.com.vn
lớn đông dân cư và có sức tiêu thụ lớn. Nhóm thuốc kháng sinh và thuốc Đông
dược đang bị làm giả nhiều nhất.
NGUYÊN LIỆU

Ngành dược Việt Nam vẫn đang trong tình trạng phát triển mất cân đối, mới
tập trung vào công nghiệp bào chế thuốc trong khi không xây dựng được
ngành sản xuất nguyên liệu. Hiện nay, nguồn nguyên liệu cho sản xuất thuốc
trong nước vẫn phải nhập khẩu đến 90%. Cả nước mới chỉ có 1 cơ sở sản xuất
kháng sinh nguyên liệu Amoxcyllin và Ampicillin, chiếm khoảng 1% giá trị sản
xuất thuốc và 0,3% giá trị tiêu dùng thuốc ở Việt Nam.

Tình trạng thiếu cung nguyên liệu sản xuất trong nước vẫn không được khắc
phục khi tốc độ tăng trưởng của nguyên liệu nhập khẩu hàng năm vẫn tăng
nhanh hơn tốc độ tăng của thuốc sản xuất. Theo Cục quản lý Dược, giá trị
nguyên liệu nhập khẩu năm 2007 là 160,3 triệu USD, tăng 23% so với năm
2006, 47% so với năm 2005. Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn dược liệu
nước ngoài khiến cho giá thuốc trong nước luôn chịu tác động từ biến động giá
của thế giới và tỷ giá giữa VND và ngoại tệ.

Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất tân dược nhiều nhất là nguyên liệu để sản
xuất thuốc kháng sinh, vitamin, thuốc giảm đau, hạ sốt từ các nhà cung cấp
lớn là Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore.

Cơ cấu nguyên liệu nhập khẩu

Cơ cấu thị trường cung cấp nguyên
liệu


Nguồn: Bộ Thương mại


Tình trạng thiếu nguyện liệu sản xuất trong nước cũng xảy ra với thuốc đông
dược. Hiện nay ngành đông y vẫn phải nhập 85% nguyên liệu mà chủ yếu là
…90% nguyên
liệu dùng cho sản
xuất thuốc phải
nhập khẩu…
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



9
www.vcbs.com.vn
từ Trung Quốc. Các nhóm nguyên liệu nhập chủ yếu như phong liễu tràng vị
khang và hoa đà táo tạo hoàn.

Có thể thấy, nguyên liệu được cung cấp cho ngành dược Việt Nam chủ yếu từ
thị trường Trung Quốc, do giá cả nguyên liệu và chất lượng hợp lý. Tuy nhiên
về lâu dài ngành Dược Việt Nam rất cần xây dựng một ngành công nghiệp
dược liệu của mình để có thể chủ động được nguyên liệu cũng như hạn chế
những tác động bất lợi của thị trường thế giới. Việt Nam hoàn toàn có khả
năng phát triển được ngành sản xuất nguyên liệu do có khí hậu thích hợp và
một nguồn dược liệu phong phú.
HỆ THỐNG PHÂN PHỐI

So với trình độ phát triển, Việt Nam có một hệ thống phân phối thuốc khá
phát triển. Cả nước có khoảng 41,500 điểm bán lẻ tại khắp các tỉnh thành
đảm bảo đưa thuốc đến tận tay người dân. Tính trung bình cứ 2000 người dân
thì có 1 điểm bán lẻ. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thiếu hụt dược sỹ khi tỷ lệ dược
sỹ trên 10.000 dân là 0,2.
Tham gia trong hệ thống phân phối thuốc gồm các thành phần sau đây:

 897 công ty TNHH, CTCP, DNTN
 29541 quầy thuốc bán lẻ
 7490 nhà thuốc tư nhân
 7417 đại lý bán lẻ thuốc
 7948 quầy thuốc thuộc trạm ytế xã
 464 quầy thuốc thuộc DN nhà nước
 6222 quầy thuốc thuộc DN nhà nước cổ phần hóa
( Nguồn: Cục Quản Lý Dược)

Xét về cơ bản, dược phẩm sẽ đi theo hệ thống phân phối sau:






Quyền phân phối thuốc trực tiếp vẫn và sẽ thuộc độc quyền của các doanh
nghiệp dược Việt Nam. Chính phủ cố gắng kiểm soát hệ thống phân phối
thuốc thông qua việc xây dựng một tập đoàn dược phẩm lớn thuộc sở hữu nhà
nước. Tuy nhiên, Việt Nam thiếu hẳn những quy định đồng bộ, rõ ràng cho
việc quản lý giám sát hệ thống phân phối một cách hiệu quả. Việc thả nổi tỷ lệ
hưởng hoa hồng cho của các đại lý phân phối là nguyên nhân khiến giá thuốc
tăng chóng mặt trong thời gian qua.
CÔNG NGHỆ VÀ R&D

Theo WTO và UNCTAD, ngành công nghiệp dược được phân theo 4 cấp độ:
Nhà sản xuất

Nhà nhập khẩu
Bệnh viện
Công ty bán buôn
Trình dược viên

Nhà nhập khẩu
Điểm bán lẻ
Người
dùng
…Hệ thống phân
phối thuốc khá
phát triển về số
lượng tuy nhiên
vẫn kém về chất
lượng…
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



10
www.vcbs.com.vn
Cấp độ 1: Hoàn toàn nhập khẩu
Cấp độ 2: Sản xuất được một số generic và đa số phải nhập khẩu
Cấp độ 3: Có công nghiệp dược nội địa sản xuất generic xuất khẩu được một
số sản phẩm dược
Cấp độ 4: Sản xuất dược nguyên liệu và phát minh thuốc mới
Theo cấp độ phát triển ngành dược của WTO và UNCTAD thì ngành công
nghiệp dược Việt Nam đang phát triển ở cấp độ 2,5-3, sản xuất được generic
và xuất khẩu được một số sản phẩm. Công nghệ sản xuất thuốc của Việt Nam
hiện nay chủ yếu là sản xuất thuốc đa phần có dạng bào chế đơn giản, hàm
lượng kỹ thuật thấp. Trong số 1.500 hoạt chất có trong các thuốc đã đăng ký
thì các doanh nghiệp dược trong nước có thể bảo chế được 773 chiếm khoảng
50% tổng số hoạt chất tuy nhiên chủ yếu là các hoạt chất thông thường.
Cơ cấu các loại bào chế thuốc Việt Nam sản xuất
Thuốc viên thường,
38%
Thuốc tiêm bột, 2%
Dịch truyền, 4%
Nhỏ mắt, 5%
Thuốc tiêm nước,
2%
Thuốc tiêm bột
Betalactam, 3%
Nang mềm, 10%
Thuốc viên
Betalactam, 13%
Kem, mỡ, 15%
Thuốc nước, 8%

Nguồn: Cục quản lý dược phẩm

Trong khi đó các hoạt chất thuốc có bào chế đặc biệt, thuốc chuyên khoa đặc
trị lại thiếu. Do công nghệ hoá dược phẩm phát triển ở mức thấp không thể
tổng hợp các nguyên liệu hóa dược phức tạp và có giá trị. Phần lớn các hoạt
chất hữu cơ cơ bản hoá chất trung gian đều phải nhập khẩu đến 90%. Mặc dù
nguồn nguyên liệu dược liệu của Việt Nam rất lớn tuy nhiên công nghệ chiết
xuất hoạt chất thiên nhiên ở mức trung bình.

Công nghệ sinh học sản xuất thuốc đang trong giai đoạn đầu nghiên cứu, đã
có những tín hiệu khả quan. Năm 2006, trung tâm nghiên cứu vắc xin và các
sản phẩm công nghệ sinh học Nha Trang đã bắt đầu đưa vào thử nghiệm sản
xuất được vắc xin phòng chống bệnh cúm gia cầm là một trong những bước
đột phá trong công nghệ sinh học ở Việt Nam.

Mặc dù quy mô thị trường dược phẩm đạt 1,11 tỷ USD tuy nhiên Việt Nam vẫn
chưa có Viện nghiên cứu dược phẩm Quốc gia để có thể nghiên cứu ra sản
…Ngành dược Việt
Nam đang ở cấp
độ 2,5 – 3…
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



11
www.vcbs.com.vn
phẩm có giá trị cao, phát triển khoa học công nghệ dược phục vụ công nghiệp
dược trong nước. Thông thường phải mất 10-20 năm các nước phát triển mới
chuyển giao công nghệ cho các nước thứ 3 sản xuất. Nếu ngành dược Việt
Nam không đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ mới thì Việt Nam
luôn đi sau các nước về trình độ công nghệ và phát triển sản phẩm.

Thực tế phần lớn cơ sở vật chất và các trang thiết bị của các cơ sở sản xuất
thuốc cũng như của các cơ sở nghiên cứu để triển khai sản xuất hiện nay còn
thiếu và không đồng bộ nên áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn
nhiều trở ngại. Nguyên nhân một phần do chi phí đầu tư công nghệ và nghiên
cứu khá cao và tốn kém. Bình quân đầu tư cho một dây chuyền sản xuất
thuốc đảm bảo chất lượng khoảng 30 đến 35 tỷ tùy theo quy mô của nhà
máy, đầu tư một hay nhiều dây chuyền thì chi phí có thể tăng cao hơn. Hơn
nữa, chi phí để nghiên cứu và sản xuất ra 1 loại thuốc mới đặc trị mất khoảng
13 năm với chi phí khoảng 8.000 triệu đô
2
. Trong 1000 thuốc nghiên cứu chỉ
có 2 sản phẩm thuốc thành công được mang ra thị trường nên ít công ty trong
nước có thể chịu được chi phí đầu tư nghiên cứu các sản phẩm mới có tính
năng cao. Tỷ lệ đầu tư nghiên cứu thuốc mới của các công ty trong nước chỉ
chiếm khoảng 5% doanh thu trong khi đó các công ty nước ngoài là 15%.
Cơ cấu các dây truyền sản xuất thuốc trong nước
Dây chuyền sản
xuất thuốc viên
thông thường
51%
Dây chuyền sản
xuất thuốc nước
8%
Dây chuyền sản
xuất thuốc tiêm
7%
Dây chuyền sản
xuất thuốc nang
mềm
10%
Dây chuyền sản
xuất thuốc nhỏ mắt
5%
Dây chuyền sản
xuất dịch chuyền
4%
Dây chuyền sản
xuất thuốc kem,
mỡ, dùng ngoài
15%

Nguồn: Cục quản lý dược phẩm

Luật bản quyền cũng hạn chế các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với công
nghệ sản xuất thuốc mới. Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ vi
phạm bản quyền cao do đó hạn chế các công ty dược nước ngoài muốn
chuyển giao công nghệ để sản xuất tại Việt Nam theo hình thức chuyển
nhượng.



2
Nguồn: IMS
Chi phí nghiên cứu
thấp so với thế giới
chiếm 5% doanh
thu…
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



12
www.vcbs.com.vn
Chiến lược phát triển ngành dược là tiến tới chủ động sản xuất thuốc ở trong
nước và đưa công nghệ hoá dược của Việt Nam đạt trình độ tương đương với
các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua phát triển công nghệ chế
biến và sản xuất thuốc đặc biệt thuốc nguồn gốc từ dược liệu, kết hợp với
nhập khẩu công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài để sản xuất nguyên
liệu hoá dược. Đẩy mạnh phát triển nghiên cứu khoa học về công nghệ bào
chế, công nghệ sinh học sản xuất các thuốc mới, thuốc thành phẩm. Đồng thời
có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào trong lĩnh vực sản xuất, nghiên
cứu chuyển giao công nghệ.
NHÂN LỰC

Nguồn nhân lực ngành dược Việt Nam hiện nay vẫn còn thiếu. Tổng số dược
sỹ chiếm khoảng 1% trong tổng số nhân lực của toàn ngành y tế. Trung bình
mỗi năm có khoảng 800 dược sĩ mới ra trường, bằng 1/5 so với số lượng bác
sĩ tuy nhiên khoảng 10.000 dân thì chỉ có 0,2 dược sĩ, một tỷ lệ thấp so với
các nước trong khu vực Singapore, Nhật Bản.
Trình độ nhân viên ngành dược thấp và ít kinh nghiệm thực tế. Trong tổng số
các dược sỹ thì số dược sỹ có bằng sau đại học rất hiếm cụ thể khu vực Tây
Nguyên mới chỉ có duy nhất 1 dược sỹ có bằng CK II, khu vực Tây Bắc có 32
dược sỹ CKI và II, khu vực Nam Trung Bộ có 43 dược sĩ CKI và II. Bên cạnh
đó, khả năng ngoại ngữ của các dược sỹ chưa cao là một trở ngại lớn để tiếp
cận khoa học công nghệ bên ngoài, nghiên cứu phát triển sản phẩm.
Trong khi các công ty dược phẩm đa quốc gia đang có xu hướng triển khai
hoạt động R&D ở nước ngoài đặc biệt ở Châu á do chi phí nhân công rẻ tuy
nhiên các trung tâm R&D ít đặt tại Việt Nam mặc dù giá nhân công rẻ hơn do
trình độ nhân lực ngành dược thấp. Do đó cản trở lợi ích R&D spillovers từ các
doanh nghiệp sản xuất nước ngoài.
Theo kế hoach phát triển nhân lực của Bộ Y tế vào 2015 cứ 1,5 dược sỹ /1 vạn
dân và 2020 là 2 dược sỹ/1 vạn dân. Để đạt được mục tiêu mở rộng nguồn
nhân lực vừa nâng cao trình độ chuyên môn, Bộ y tế đang triển khai quy
hoạch đào tạo lại các cán bộ y tế, nâng cấp các cơ sở đào tạo cán bộ y, dược.
Chú trọng đào tạo dược sỹ có trình độ chuyên môn cao đồng thời khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư vào công tác đào tạo nguồn nhân lực y tế
và triển khai các chương trình đào tạo. Hiện tại cả nước mới chỉ có 1 trường
đại học đào tạo chuyên ngành dược là Đại học Dược Hà Nội là quá ít.
Nhân lực ngành
dược hiện vẫn
chưa đáp ứng được
nhu cầu về chất
lượng và số lượng
cho chiến lược
phát triển ngành…
PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM



13
www.vcbs.com.vn


MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CÁC RÀO CẢN GIA NHẬP

CHÍNH SÁCH GIÁ

Theo quy định của Bộ Y tế ban hành ngày 31/8/2007 thì nhà nước quản lý giá
thuốc theo nguyên tắc các cơ sở sản xuất, nhập khẩu bán buôn và bán lẻ tự
định giá, cạnh tranh về giá và chịu sự kiểm tra kiểm soát của cơ quan nhà
nước. Việc kê khai giá thuốc là do cơ sở kinh doanh báo cáo với cơ quan nhà
nước về giá nhập khẩu, giá bán buôn và giá bán lẻ dự kiến. Tất cả các công ty
không được tự phép nâng giá thuốc mà không có sự cho phép của Bộ y tế.
Trong trường hợp khẩn cấp các công ty vẫn phải đưa ra kế hoạch chi tiết nâng
giá thuốc trước khi triển khai thực hiện.
Thông tư của Bộ Y tế ban hành ngày 31/8/2007 đã góp phần hạn chế tăng giá
thuốc bất hợp lý của các cơ sở sản xuất, nhà nhập khẩu, bán buôn và bán lẻ.
Bắt đầu từ 12/2007, quy trình quản lý thuốc của cục quản lý dược phẩm khá
chặt chẽ. Theo quy định các cơ sở bán buôn và bán lẻ thuốc phải niêm yết giá
bán và không được bán cao hơn giá đã niêm yết. Mức giá niêm yết bán dựa
trên mức giá do cơ sở sản xuất, giá nhập khẩu đã kê khai với cơ quan quản lý
dược phẩm. Cục quản lý dược phẩm đã đưa trang website thông tin về thuốc
nước ngoài, thuốc sản xuất trong nước và thuốc đã đăng kí lưu hành tại Việt
Nam và giá thuốc trúng thầu để giúp các cơ sở điều trị, doanh nghiệp, nhà
buôn buôn, bán lẻ thuốc có thể tham khảo thông tin về giá thuốc.
Đối với thuốc nhập khẩu và lưu hành tại thị trường Việt Nam thì giá thuốc
không được cao hơn giá CIF thực tế trung bình của thuốc đó mà cơ sở nước
ngoài đó bán cho các nước trong khu vực và giá bán thuốc của các nước trong
khu vực được cập nhật 1 năm để sát với thực tế. Như vậy theo quy định mới
này các cơ quan nhập khẩu không thể tự khai khống giá bán thuốc quá cao
trước khi vào Việt Nam.

CÁC CAM KẾT CỦA WTO ĐỐI VỚI NGÀNH DƯỢC
Quyền kinh doanh
Từ 1/1/2007 các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép mở chi nhánh tại Việt
Nam dưới hình thức liên doanh liên kết hay 100% vốn nước ngoài. Doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài sẽ được đối xử bình đẳng theo
Giá thuốc tại cơ
sở kinh doanh do
Bộ Y Tế quản lý
dựa trên chi phí
sản xuất và nhập
khẩu…
Việc thay đổi giá
bán thuốc phải
được phép của Bộ
Y Tế…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét