Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam
5
- Do nhu cầu giải quyết những nhiệm vụ đặc biệt như xây dựng công trình
có quy mô và cần hoạt động vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia đòi hỏi
phải có sự phối hợp của nhiều nước, chẳng hạn như việc xây dựng các đường
ống dẫn dầu và khí đốt, xây dựng hệ thống lưới điện xuyên Châu Âu, xây dựng
tuyến cáp quang nối liền nhiều nước Châu Á.
Những nguyên nhân cơ bản trên đây khiến cho hoạt động đầu tư quốc tế
hình thành và phát triển với quy mô ngày càng lớn. Tuy nhiên, khác với loại
hình đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp trong ĐTQT có xu hướng phát triển mạnh
mẽ hơn rất nhiều. Đó là do những đặc điểm riêng của loại hình đầu tư này.
3. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Dựa trên cơ sở phân biệt giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp trong
ĐTQT, căn cứ vào thực tiễn hoạt động ĐTTTNN trên thế giới, có thể rút ra một
số đặc điểm nổi bật sau đây về ĐTTTNN:
* Các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện việc đầu tư trên nước sở tại nên
ngoài việc phải tuân thủ luật pháp nước chủ nhà, luật pháp quốc tế, còn phải
tuân thủ theo các quy định của pháp luật của nước sở tại đề ra đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động ĐTTTNN
của các nước thường là Luật đầu tư nước ngoài.
* Các nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn
pháp định, tùy theo quy định của luật đầu tư của mỗi nước. Vốn pháp định trong
dự án ĐTTTNN là vốn tự có của chủ đầu tư được quy định theo luật đầu tư. Sau
khi góp vốn hợp lệ, nhà đầu tư nước ngoài có quyền tham gia vào việc quản lý
và điều hành dự án đầu tư. Ở Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài quy định tỷ lệ
góp vốn của bên nước ngoài tối thiểu không dưói 30% vốn pháp định và không
quy định giới hạn vốn tối đa. Ở Mỹ tỷ lệ này được quy định là 10%, một số
nước khác là 20%.
* Quyền quản lý dự án đầu tư phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi
bên, và sự hoạt động dưới bất cứ hình thức nào của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài phải tuân thủ pháp luật ở nước sở tại. Chẳng hạn, nếu vốn góp của
nhà đầu tư là 100% thì nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền quản lý doanh
nghiệp, và quyền này sẽ bị giảm đi nếu tỷ lệ vốn góp giảm xuống.
6
* Lợi nhuận mà chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp
định. Phần lợi nhuận này thường được các nhà đầu tư chuyển về nước sau khi đã
nộp một khoản thuế hoặc cũng có thể được sử dụng để tái đầu tư ở nước sở tại.
* Hoạt động ĐTTTNN được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh
nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc
mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp vốn với nhau. Hoạt
động ĐTTTNN thực hiện ở nước sở tại, nên toàn bộ quá trình từ đăng ký, triển
khai, đến vận hành và kết thúc dự án ĐTTTNN phải chịu sự điều chỉnh của Bộ
luật tương ứng, thường là luật đầu tư nước ngoài. Ví dụ ở Việt Nam, hoạt động
ĐTTTNN chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành
năm 1987, ngoài ra còn có trên 90 văn bản dưới luật do Chính phủ và các Bộ
ban hành nhằm quy định chi tiết việc thi hành đầu tư tại Việt Nam, chẳng hạn
như Thông tư số 12/BKH của Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Nghị định 24/CP của
Chính phủ Việt Nam ban hành năm 2000.
Ngoài ra, hoạt động ĐTTTNN còn mang một số đặc điểm mới sau:
* Hiện tượng đa cực và đa biên trong ĐTTTNN là hiện tượng đặc thù
không chỉ gồm nhiều bên với tỷ lệ vốn góp khác nhau mà còn có các hình thức
khác nhau của tư bản như tư bản tư nhân và Nhà nước cùng tham gia.
* Tồn tại hiện tượng hai chiều trong ĐTTTNN: hiện tượng một nước vừa
tiếp nhận vốn đầu tư từ nước khác, vừa thực hiện đầu tư ra nước ngoài nhằm tận
dụng lợi thế so sánh giữa các nước với nhau.
* Do quyền lợi của chủ đầu tư gắn liền với lợi ích do đầu tư đem lại cho
nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý, tay
nghề cho công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.
* ĐTTTNN liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa
quốc gia và sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế.
Với những đặc điểm trên ĐTTTNN đã có những tác động rất lớn đối với
cả quốc gia đi đầu tư lẫn quốc gia tiếp nhận đầu tư.
II. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI:
ĐTTTNN là một hoạt động có phạm vi ảnh hưởng rất rộng lớn và mang
tính hai mặt. Nó không chỉ tác động lên nước đầu tư mà còn ảnh hưởng đối với
nước tiếp nhận đầu tư.
7
1. Vai trò đối với nước chủ nhà:
Đối với nước chủ nhà, ĐTTTNN đem lại cho họ những lợi ích sau:
- Thứ nhất, bằng hoạt động ĐTTTNN các chủ đầu tư có khả năng trực
tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, do đó có thể khai thác hiệu quả số
vốn của họ. Đây là ưu điểm vượt trội so với loại hình đầu tư gián tiếp, trong đó
chủ đầu tư không trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn
ra mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay để kiếm lời qua lãi cho vay hay lợi tức
cổ phần.
- Thứ hai, Thông qua hình thức ĐTTTNN, các chủ đầu tư có thể chiếm
lĩnh thị trường nước ngoài và tiếp cận được nguồn nguyên liệu của nước sở tại
mà không phải chịu chi phí nhập khẩu và chi phí vận chuyển. Thay vì việc xuất
khẩu vào một thị trường nào đó, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp sản xuất và cho
tiêu thụ sản phẩm ngay trên thị trường này thông qua ĐTTTNN. Bên cạnh đó,
nhà đầu tư nước ngoài còn tận dụng được nguồn nguyên liệu ở nước sở tại mà
không phải nhập khẩu từ một nước thư ba. Chẳng hạn, Công ty Honda của Nhật
Bản từ khi đầu tư vào Việt Nam đã chuyển hẳn từ việc xuất khẩu trực tiếp xe
máy vào Việt Nam sang sản xuất linh kện và lắp ráp tại chỗ, khiến cho giá thành
một chiếc xe máy giảm đáng kể mà chất lượng vẫn không bị hạn chế.
- Thứ ba, các chủ đầu tư nước ngoài có thể tận dụng được nguồn nhân
công giá rẻ, giúp họ giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động. Bởi vì, ở
những nước tiếp nhận vốn (thường là nước chậm và đang phát triển) thì mức
sống cũng như mức lương là rất thấp, nguồn lao động lại dồi dào, do đó làm
giảm đáng kể chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp ĐTTTNN. Có thể lấy
trường hợp Nhà máy bia Đông Nam Á (Bia Halida và Carlbergs) của Đan Mạch
tại Việt Nam làm ví dụ. Nhờ nắm bắt được thị hiếu của người Việt Nam nên
Nhà máy đã có doanh thu vượt vốn đầu tư vốn đầu tư ban đầu mặc dù vốn thực
hiên mới chỉ đạt 50%.
- Thứ tư, do xây dựng được các doanh nghiệp trong lòng nước sở tại mà
các chủ ĐTTTNN tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước đó, đồng thời
có thể nắm bắt được thông tin về thị trường, như quan hệ cung cầu, thị hiếu của
khách hàng và kịp thời cải thiện mẫu mã chất lượng sản phẩm. Đây là lợi thế
hơn hẳn so với việc xuất khẩu sản phẩm sang thị trường nước sở tại.
8
- Thứ năm, ĐTTTNN giúp các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ lạc hậu,
gây ô nhiễm môi trường, chuyển giao những máy móc, thiết bị lão hoá sang các
nước đang và kém phát triển. Ví dụ như những nước chuẩn bị chuyển sang sử
dụng công nghệ nguồn như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… thì những nước
chậm và đang phát triển trở thành thị trường nhập khẩu những công nghệ thế hệ
cũ của các nước này.
- Thứ sáu, ĐTTTNN còn giúp nước chủ nhà bành trướng sức mạnh về
kinh tế, nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế Thường những nước có
tiềm lực kinh tế lớn và có ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế thế giới như Mỹ,
Đức, Pháp, Nhật Bản… là những nước đầu tư đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế
giới.
Tuy vậy, ĐTTTNN cũng thể hiện tính 2 mặt của nó ngay cả với nước chủ
nhà. Mặt tiêu cực của hoạt động này thể hiện ở việc làm giảm một nguồn vốn
đáng kể ở nước đi đầu tư. Vốn là 1 nguồn lực quan trọng của mọi quốc gia việc
di chuyển nó ra khỏi biên giới không chỉ khiến cho nước đi đầu tư mất đi nguồn
lực này nà còn làm thâm hụt cán cân thanh toán. ĐTTTNN cũng buộc nước phải
san sẻ 1 phần công nghệ mới và những kinh nghiệm quản lý đã tích góp được
của mình. Đó là chưa kể đến những rủi ro mà nhà đầu tư gặp phải ở nước tiếp
nhận khi thực hiện hoạt động đầu tư. Nhưng dù có rủi ro đến mức nào đi nữa thì
ĐTTTNN cũng là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Lợi ích của nước đi đầu tư thì có thể nhìn thấy một cách rõ ràng như vậy,
tuy nhiên, đứng ở góc độ nước tiếp nhận thì việc đánh giá tác động của việc
ĐTTTNN phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhiều mặt.
2. Vai trò đối với nước sở tại:
2.1. Nước sở tại là nước phát triển:
Hiện nay dòng chảy của tư bản quốc tế đang đổ dồn vào các nước công
nghiệp phát triển như Mỹ và Tây Âu. Những nước này trở thành những trung
tâm thu hút vốn lớn nhất thế giới. Đối với những quốc gia này, ĐTTTNN đã
giúp tái cơ cấu nền kinh tế, hiện đại hoá những ngành công nghiệp quan trọng,
phát triển các ngành mũi nhọn Và một số những lợi ích cơ bản sau:
* Giúp giải quyết khó khăn về vấn đề kinh tế - xã hội như thất nghiệp và
lạm phát. Đây là 2 vấn đề mà nhiều nước phát triển đang phải đương đầu, khi
9
dòng vốn ĐTTTNN chảy vào, các công ty, các doanh nghiệp mọc lên và thu hút
nhiều lao động trực tiếp, đồng thời tạo ra một đội ngũ lao động gián tiếp hoạt
động trong các ngành dịch vụ, bổ trợ. Bên cạnh đó các công ty, các doanh
nghiệp này sẽ tạo ra một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ phong phú và đa
dạng trên thị trường, góp phần làm giảm nguy cơ tăng giá và kìm chế lạm phát.
* Cứu nguy cho một số xí nghiệp trên bờ vực phá sản thông qua việc mua
lại của các chủ ĐTTTNN. Khi đó, các công ty sẽ thoát khỏi cảnh nợ nần và có
cơ hội phát triển trở lại, giữ vững chỗ đứng và danh tiếng trên thị trường. Đối
với các công ty lớn thì việc bị phá sản sẽ dẫn đến phản ứng dây truyền trên thị
trường và tác động xấu đến thị trường chứng khoán, chẳnh hạn như vụ sụp đổ
của tập đoàn năng lượng Enron và công ty kiểm toán Arthur Anderson của Mỹ
năm 2001.
* Tăng thu ngân sách thông qua việc thu các loại thuế. Chẳng hạn như
thuế thu nhập, thuế chuyển lợi nhuận về nước, thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT…
nhà nhà đầu tư nước ngoài phải nộp cho nước sở tại. Đây là một trong những
nguồn bổ sung lớn vào ngân sách quốc gia của các nước phát triển.
* Tạo ra môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương
mại. Ở các nước phát triển, cơ chế thị trường rất phát triển và có tính cạnh tranh
cao, khi các nhà ĐTTTNN thâm nhập vào sẽ mở rộng thêm sân chơi này, làm
tăng động lực phát triển kinh tế.
* Giúp trao đổi kinh nghiệm quản lý và chiến lược cạnh tranh trong kinh
doanh.v.v Đó chính là kết quả được tạo ra do mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp nước sở tại và các doanh nghiệp ĐTTTNN. Cũng nhờ đó mà các doanh
nghiệp nước sở tại tích trữ được những kinh nghiệm về đầu tư và thâm nhập thị
trường nước ngoài.
2.2. Nước sở tại là nước chậm và đang phát triển
Bên cạnh dòng vốn đổ xô vào các nước tư bản phát triển, còn có một lưu
lượng vốn lớn chảy vào các nước chậm và đang phát triển. Đối với những nước
này, tác động của hoạt động ĐTTTNN được đánh giá trên hai mặt cơ bản: mặt
tích cực và mặt tiêu cực.
Hoạt động ĐTTTNN ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng đặc biệt
của nó đối với những nước chậm và đang phát triển, thể hiện ở những điểm sau:
10
- Thứ nhất, ĐTTTNN bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển, khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra
thế và lực phát triển mới.
Vốn là một yếu tố quan trọng của tăng trưởng, đặc biệt trong giai đoạn
đầu phát triển kinh tế. Nhiều nhà kinh tế đã giải thích sự nghèo khó của các
nước chậm và đang phát triển thông qua cái "vòng luẩn quẩn" mà các nước này
đang phải đối mặt. Đó là: Do sản lượng và thu nhập thấp, nên tích luỹ và đầu tư
phát triển thấp, do đầu tư phát triển thấp nên trình độ khoa học công nghệ thấp,
dẫn đến năng suất lao động thấp, kết quả là sản lượng và thu nhập thấp Cái
"vòng luẩn quẩn" này cứ tiếp diễn và quốc gia đó sẽ không phát triển nếu như
không có một "cú huých" từ bên ngoài. Đó chính vốn ĐTTTNN.
Thiếu vốn tích luỹ đã hạn chế quy mô và hạn chế đổi mới kinh tế, gây ra
tình trạng mất cân đối trong xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán thường xuyên bị
thâm hụt, thiếu dự trữ ngoại tệ Vì vậy, ĐTTTNN sẽ thúc đẩy xuất khẩu, nhập
khẩu và làm tăng thu ngoại tệ, cải thiện tình trạng của cán cân thanh toán thâm
hụt. Thực tế cho thấy, trong 3 thập kỷ qua các nước công nghiệp mới (NICs)
Châu Á đã nhận được trên 50 tỷ USD vốn ĐTTTNN, đây là nhân tố quan trọng
giúp các nước này trở thành những con rồng Châu Á (Theo: Giáo trình sau đại
học, môn: Kinh tế quốc tế).
Thông qua vốn ĐTTTNN, nhiều nguồn lực trong nước (lao động, đất đai,
tài nguyên,…) được khai thác và đưa vào sử dụng tương đối có hiệu quả; đồng
thời, các quốc gia này cũng chủ động hơn trong bố trí cơ cấu vốn đầu tư; dành
nhiều vốn ngân sách, vốn đầu tư trong nước cho đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội và đầu tư vào những vùng khó khăn, tạo tốc độ tăng trưởng đồng đều
va hợp lý giữa các vùng.
Ở những nước chậm và đang phát triển, một bộ phận vốn lớn đang nằm
trong tay dân cư. Hoạt động ĐTTTNN là động lực huy động được nguồn vốn
này đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các nước này tiếp thu
được cách quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình.
- Thứ hai, ĐTTTNN giúp cho các nước chậm và đang phát triển tiếp cận
và mở rộng thị trường quốc tế nâng cao năng lực xuất khẩu. Các nước này đã sử
dụng nguồn vốn ĐTTTNN như là một lá bài chính trong chiến lược "công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu". Một số nước có tỷ lệ đóng góp của tư bản
11
nước ngoài vào việc xuất khẩu khá lớn, chẳng hạn như Xingapo là 72,1%,
Braxin 32,2%, Mêxicô 32,1%, Đài Loan 25,6%, Hàn Quốc 24,6%, Áchentina
24,9%, Thái Lan 23,7% (Nguồn: Giáo trình sau đại học, môn: Kinh tế quốc
tế), khi tỷ trọng xuất khẩu trong GDP tăng lên cũng có nghĩa là độ mở của nền
kinh tế tăng lên. Điều đó giúp cho các nước chậm và đang phát triển tham gia
tích cực hơn vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá.
Chẳng hạn ở Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu
vực ĐTTTNN tăng khá nhanh: trong 8 năm 1988- 1995 đạt trên 1,12 tỷ USD,
thời kỳ 1996-2002 đạt trên 18,775 tỷ USD, tăng hơn 15 lần so với 8 năm trước
và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước (Nguồn: Vụ Đầu tư nước ngoài -
Bộ KH & ĐT). Ngoài ra, khu vực ĐTNN đã góp phần mở rộng thị trường trong
nước; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du
lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ; tạo cầu nối cho
các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các
thị trường quốc tế.
- Thứ ba, ĐTTTNN góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở các nước chậm
và đang phát triển theo hướng công nghệp hoá, hiện đại hoá và đưa nền kinh tế
các nước này tham gia vào phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ.
Hoạt động ĐTTTNN tập trung chủ yếu vào các ngành quan trọng của nền
kinh tế, chẳng hạn như các lĩnh vực: công nghiệp chế tạo, công nghiệp lắp ráp
có trình độ công nghệ tương đối cao. Khi tỷ trọng ngành công nghiệp ổn định
trong nền kinh tế đã tăng lên thì các nước này có thể tham gia vào việc phân
công lao động quốc tế thông qua việc chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng
có lợi thế so sánh đối với phần còn lại của thế giới.
Đối với Việt Nam, hoạt động ĐTTTNN trong những năm đầu (ngoài dầu
khí) tập trung nhiều vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản (khách sạn, văn
phòng cho thuê ), nhưng trong thời kỳ 1996-2002 tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực sản xuất vật chất với cơ cấu ngành nghề hợp lý hơn, hướng vào sản xuất,
chế biến xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng; trong đó, ĐTTTNN trong các
ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 56% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện
(so với tỷ lệ tương ứng là 52,7% và 56% thời kỳ 1991-1995). Cơ cấu ĐTNN
trong lĩnh vực dịch vụ chuyển dịch mạnh, trong thời kỳ 1996-2002, các dự án
kinh doanh bất động sản giảm 52%, trong khi các dự án xây dựng hạ tầng kỹ
12
thuật (viễn thông, dịch vụ kỹ thuật) tăng 1,4 lần 8 năm trước (Nguồn: Vụ Đàu tư
nước ngoài - Bộ KH & ĐT).
- Thứ tư, hoạt động ĐTTTNN giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm và phát
triển nguồn nhân ở các nước chậm và đang phát triển.
Thông qua việc đầu tư mới, hoặc mở rộng quy mô của các đơn vị kinh tế,
ĐTTTNN đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho người lao động, qua đó làm
tăng thu nhập của người dân. Chẳng hạn, ở Xingapo, Braxin, Mêxcô, tỷ lệ lao
động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTTTNN trong tổng số lao động lần lượt
là: 54%, 23%, 21% (Theo: Giáo trình sau đại học môn: Kinh tế quốc tế), đây là
những tỷ lệ tương đối cao và có ý nghĩa lớn trong việc giảm thất nghiệp ở các
nước này.
Ở Việt Nam, cho đến năm 2002, khu vực ĐTTTNN đã thu hút trên 35 vạn
lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác như xây dựng, cung
ứng dịch vụ Một số lượng đáng kể người lao động đã được đào tạo nâng cao
năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước
ngoài. Qua hợp tác đầu tư, người lao động được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp
thu kỹ năng, công nghệ tiên tiến, rèn luyện tác phong lao động công nghiệp và
thích ứng dần với cơ chế lao động mới. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp
từng bước được cải thiện. Đội ngũ cán bộ Việt Nam trong lĩnh vực ĐTNN ngày
một trưởng thành và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quản lý.
- Thứ năm, ĐTTTNN giúp cho các nước chậm và đang phát triển tiếp thu
được nguồn công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nhà đầu
tư nước ngoài.
Phần lớn công nghệ hiện có ở các nước này là công nghệ lạc hậu, năng
suất thấp, bên cạnh đó, khả năng quản lý kém hiệu quả. Hơn nữa, việc nhập
khẩu công nghệ hiện đại của nước ngoài đòi hỏi một khoản ngoại tệ rất lớn.
Trong khi đó, ĐTTTNN có sự quản lý trực tiếp của nhà quản lý đầu tư, do đó họ
sẽ lựa chọn được công nghệ thích hợp và đưa ra phương pháp quản lý hiệu quả.
Như vậy, ĐTTTNN là một kênh chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý
quan trọng đối với các nước chậm và đang phát triển.
Chẳng hạn ở Việt Nam, ĐTTTNN đã góp phần nâng cao năng lực công
nghệ của nền kinh tế. Nhiều công nghệ mới, hiện đại đã được du nhập vào nước
ta, nhất là trong các lĩnh vực viễn thông, dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học, ôtô,
13
xe máy, tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển một số ngành
kinh tế mũi nhọn của đất nước. Ví dụ như công nghệ khai thác dầu khí ngoài
khơi, lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, rôbốt; dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện
tử, mạch điện tử; công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp thông tin, cáp điện,
Nhìn chung trang thiết bị đồng bộ, có trình độ cao hơn hoặc bằng các thiết bị
tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Vấn
đề bảo vệ môi trường cũng được các doanh nghiệp ĐTTTNN rất quan tâm. Bên
cạnh đó, các dự án ĐTTTNN sử dụng nhiều lao động được khuyến khích đầu tư,
nhất là trong lĩnh vực gia công, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may,
giày dép, đầu tư vào KCN, KCX,
-Thứ sáu, ĐTTTNN góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ
động hội nhập kinh tế khu vực và Thế giới.
Đối với những nước chậm và đang phát triển, việc thoát khỏi thế cô lập và
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một chiến lược hợp lý trong xu thế toàn
cầu hoá nền kinh tế Thế giới. Thông qua hoạt động ĐTTTNN, các nước này có
cơ hội tiếp cận với các nước phát triển, các công ty xuyên quốc gia (TNCs), qua
đó cũng đưa được hình ảnh của mình ra Thế giới. Với vai trò này của ĐTTTNN,
có thể lấy Việt Nam làm một ví dụ điển hình. Cho đến hết năm 2002, đã có trên
70 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án ĐTTTNN ở Việt Nam, và trên 80 TNCs
nằm trong danh sách 500 TNCs hàng đầu trên Thế giới đầu tư ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, ĐTTTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung
với EU, bình thường hoá quan hệ và ký Hiệp định thương mại song phương với
Mỹ; tăng cường thế và lực của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế).
Chính những đổi mới của nền kinh tế nói chung, về môi trường kinh doanh
trong lĩnh vực ĐTNN nói riêng những năm qua cũng góp phần quan trọng trong
việc khôi phục và gia tăng nguồn vốn ODA cho Việt Nam từ năm 1993 đến nay
(Nguồn: Vụ Đầu tư nước ngoài - Bộ KH & ĐT).
-Thứ bảy, ĐTTTNN giúp các nước chậm và đang phát triển từng bươc
thực hiện việc đầu tư ra nươc ngoài để mở rộng thị trường.
Đây chính là một đặc điểm mới của hoạt động ĐTTTNN hiện nay (như đã
trình bày trong phần I, 2). Tình hình phổ biến trên thế giới hiện nay là các nước
phát triển không chỉ đầu tư ra nước ngoài mà còn là nước tiếp nhận ĐTTTNN
14
lớn nhất (chiếm khoảng 91,5% tổng vốn đầu tư ra ngoài và 73,5% tổng vốn
ĐTTTNN nhận vào); đồng thời, nhiều nước đang phát triển, nhất là các nước
công nghiệp mới cũng từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài (chiếm khoảng
26,5% tổng vốn ĐTTTNN nhận vào và 8,5% tổng vốn đầu tư ra ngoài) (Nguồn:
Vụ Đầu tư nước ngoài - Bộ KH & ĐT). Việc đồng thời tiếp nhận vốn và đầu tư
ra ngoài là xu hướng khách quan của toàn cầu hoá, tạo nên dòng đối lưu trong
luân chuyển vốn quốc tế. Cánh kéo giữa hai dòng đối lưu này phụ thuộc quan
trọng vào trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia và ngày càng thu hẹp cùng
với trình độ phát triển cao hơn của nền kinh tế.
Đến 31/12/2002, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 72 dự án đầu tư ra 19
nước và vùng lãnh thổ, với số tổng số vốn đầu tư khoảng 181 triệu USD, chủ
yếu trong các lĩnh vực chế biến thực phẩm, dầu khí ngoài khơi, thương mại -
dịch vụ, xây dựng. Tuy số dự án chưa nhiều và quy mô còn nhỏ, nhưng đây là
hướng đi đúng, phù hợp với xu hướng chung, mở ra khả năng đầu tư vào các dự
án có hiệu quả về nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng dân dụng, thủ công mỹ
nghệ, dầu khí, tại Lào, Campuchia, Liên bang Nga, Hồng Kông, Singapore,
Trung Cận Đông. Thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp
Việt Nam có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hoá, dịch vụ và lao động ra nước ngoài. (Xem phụ lục 2)
- Thứ tám, ĐTTTNN giúp hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, thủ
tục hành chính ở các nươc chậm và đang phát triển.
Đây là kết quả của quá trình ban hành và sửa đổi liên tục các đièu luật và
các thể chế, chính sách cũng như cơ nhế hành chính ở nước sở tại, với mục tiêu:
cải tạo môi trường đầu tư để đẩy mạnh khả năng thu hút vốn ĐTTTNN.
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản luật pháp, chính sách quan trọng về ĐTNN như: Luật ĐTNN năm
1996, Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN, và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Dầu khí
năm 2000; các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật ĐTNN của Chính phủ (như:
Nghị định 12/CP, Nghị định 10/1998/NĐ-CP, Nghị định 24/2000/NĐ-CP, Chỉ
thị số 11/1998/CT-TTg và Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ) nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Những chính sách tập trung vào
tháo gỡ khó khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế cho các doanh nghiệp
ĐTNN (như miễn giảm thuế, tiền thuê đất, cho dãn, hoãn, tiến độ hoặc thay đổi
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét