Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
USDA Bộ Nông nghiệp Mỹ (United States Department of Agriculture)
WTO Tổ chức thương mại Thế giới (World Trade Organization)
ASIAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asian
Nations)
AoA Hiệp định nông nghiệp (Agreement on Agriculture)
GATT
Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (General Agreement
on Tariffs and Trade)
NQ Nghị quyết
TƯ Trung ương
APEC
Tổ chức hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Asia-
Pacific Economic Cooperation)
AFTA Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á (ASEAN Free Trade Area)
CEPT Hiệp định ưu đãi thuế quan (Common Effective Preferential Tariff)
UBND Ủy ban nhân dân
NN&PTNT Nông nghiệp phát triển nông thôn
FAO Tổ chức nông lương Thế giới (Food and Agriculture Organization)
TCTK Tổng cục thống kê
CHƯƠNG 1
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu gạo
1.1.1 Khái lược về thương mại nông sản
a. Khái niệm và bản chất của thương mại nông sản quốc tế
Thương mại nông sản (agricultural products trade) hay thương mại các sản phẩm
nông nghiệp là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trong
thị trường nông nghiệp, bao gồm các hoạt động mua bán nông sản, cung ứng dịch
vụ trong hoạt động mua bán nông sản, đầu tư, xúc tiến thương mại nông sản và các
hoạt động liên quan nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thương mại nông sản quốc tế (international agricultural product trade), thường
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, là sự trao đổi nông sản (xuất – nhập khẩu nông sản)
và cung cấp dịch vụ trong hoạt động xuất nhập khẩu nông sản qua biên giới các
quốc gia.
Những nội dung ban đầu về thương mại nông sản quốc tế đã được đề cập trong
GATT 1947. Đến AoA 1995, hoạt động thương mại này lại một lần nữa được nhấn
mạnh về tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế thế giới. Thương
mại nông sản quốc tế là một bộ phận quan trọng trong thương mại quốc tế, đặc biệt
đối với các quốc gia đang phát triển.
b. Quá trình hội nhập quốc tế của thương mại nông sản
Trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là một phương thức chủ yếu
và là xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện nay.
Trong xu thế này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế
giới nói chung và các thành phần trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng
đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường các hoạt động hợp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu vực. Có thể khẳng định,
trong bối cảnh hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập kinh tế thương mại nói chung, thương mại nông sản quốc tế nói
riêng có thể tạm chia: giai đoạn thăm dò hội nhập, giai đoạn khởi động hội nhập,
giai đoạn tăng cường hội nhập.
Trong giai đoạn thăm dò hội nhập, các quốc gia có xu hướng cởi bỏ dần các hạn
chế xuất khẩu, thực hiện hoàn thiện các chính sách tài chính, thuế, như mở cửa sàn
giao dịch quốc tế về tiền tệ, hàng hóa, ban hành thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh
thu, thuế lợi nhuận… Chính sách xuất nhập khẩu và các quy định về thương mại
được thông thoáng hơn. Tuy nhiên, một số hàng hóa vẫn bị giới hạn xuất khẩu và
phải đăng ký nhóm hàng hóa xuất khẩu.
Đặc điểm của giai đoạn khởi động hội nhập là việc thông thoáng hơn thủ tục xuất
khẩu và nhập khẩu như bãi bỏ các giấy phép nhập khẩu, dỡ bỏ quyền kiểm soát,
khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, bước đầu ký kết và tham gia các Hiệp
định thương mại quốc tế. Một đặc điểm nữa trong giai đoạn này đó là các chủ thể
kinh tế sẽ gặp khó khăn khi đối mặt với các quy định chung (như các quy định về
chất lượng sản phẩm, số lượng và giá cả) cũng như áp lực cạnh tranh từ các quốc
gia khác.
Đối với giai đoạn tăng cường hội nhập, nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hóa
và bảo hộ mậu dịch trong chính sách thương mại quốc tế có sự thay đổi rõ rệt. Xu
hướng tích cực chủ động tham gia các Hiệp định về tự do hóa thương mại, các Khu
vực mậu dịch tự do. Những lúng túng ban đầu với các quy định chung dần được
khắc phục, trao đổi thương mại quốc tế làm mờ đi ranh giới quốc gia.
c. Vai trò của thương mại nông sản quốc tế
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Nếu như sản xuất nông nghiệp là gốc luôn tạo ra nguồn nông sản hàng hoá lớn và
ổn định với chất lượng ngày càng cao, để cung cấp cho khâu xuất khẩu, thì ngược
lại, hoạt động xuất khẩu phát triển lại tạo ra thế và lực mới cho sản xuất nông
nghiệp phát triển ở mức cao hơn, là cơ sở cho việc tăng nguồn đầu tư cho sản xuất,
tăng nguồn tích luỹ cho ngân sách Nhà nước và tăng trưởng kinh tế chung của cả
nước.
Đối với các nước đang phát triển, thương mại nông sản quốc tế là bộ phận cấu
thành không thể thiếu trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Không những
thế nó còn là hoạt động liên quan đến cân bằng xuất nhập khẩu quốc gia, đến cuộc
sống của nông dân và nông thôn, khả năng nâng cao đời sống dân cư nói chung.
Đối với toàn bộ nền kinh tế
Vai trò tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo
Thương mại xuất khẩu nói chung trực tiếp tiếp sức cho sản xuất trong nước tăng
trưởng, mở rộng quy mô thị trường và tạo thêm nhiều việc làm mới. Đóng góp của
thương mại nông sản còn thể hiện trong nền kinh tế thị trường ở chỗ, nó tạo tiền đề
cho sự chuyển dịch các nguồn lực (lao động, vốn…) từ nông nghiệp sang các khu
vực khác (công nghiệp chế biến và các dịch vụ liên quan)
Vai trò thúc đẩy tăng trưởng bền vững
Xu hướng chung ở các nước trong quá trình công nghiệp hóa, ở giai đoạn đầu giá
trị xuất khẩu nông sản (cùng với lâm, thủy sản) chiếm tỷ trọng cao trong kim
ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh
tế. Ở Thái Lan, năm 1970 tỷ trọng giá trị nông, lâm, thủy sản trong tổng kim ngạch
xuất khẩu chiếm 76,71% giảm xuống 59,36% năm 1980; 38,11% năm 1990;
35,40% năm 1991 đến năm 1994 chỉ còn 29,60%.
Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của môi
trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất như phân bón hóa học, thuốc trừ sâu
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
bệnh… làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Trong quá trình canh tác dễ gây ra xói
mòn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và khai hoang mở rộng diện tích đất
rừng… Vì thế, trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm giải pháp
thích hợp để duy và tạo sự bền vững của môi trường.
Đối với thương mại quốc tế
Lợi thế cạnh tranh và hội nhập kinh tế
Nông sản được coi là hàng hóa đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn bởi nó dễ dàng gia
nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hóa công nghiệp. Vì thế, ở nhiều
nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, nguồn xuất khẩu có ngoại tệ chủ yếu
dựa vào các loại nông sản.
Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản thường bất lợi do giá cả trên thị trường thế giới có
xu hướng giảm xuống, trong đó giá cả sản phẩm công nghiệp tăng lên, tương quan
giữa giá hàng nông sản và hàng công nghệ ngày càng mở rộng, làm cho nông
nghiệp nông thôn thua thiệt. Ở một số nước chỉ dựa vào một vài loại nông sản xuất
khẩu chủ yếu nhưu Coca ở Ghana, đường mía ở Cuba, cà phê ở Braxin… đã phải
chịu nhiều rủi ro và bất lợi trong xuất khẩu. Vì vậy, gần đây nhiều nước đã thực
hiện đa dạng hóa sản xuất và xuất khẩu nhiều loại nông sản nhằm đem lại nguồn
ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Xuất khẩu còn là lực đẩy mạnh mẽ, có tính quyết định góp phần đẩy nhanh tốc độ
hội nhập của nền kinh tế.
1.1.2 Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu gạo
a. Khái quát về hoạt động sản xuất lúa gạo
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn tại các quốc gia khu vực châu Á – đặc biệt là các nước đang
phát triển như Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Biểu. Phân phối sản lượng và tiêu dùng lúa gạo theo khu vực (1989-1991)
Lúa là cây trồng chính ở hầu hết các quốc gia trong Nam và khu vực Đông Nam Á,
Châu Á. Trồng lúa là cơ sở chủ yếu tạo ra việc làm và thu nhập, đặc biệt ở khu vực
nông thôn. Lúa gạo chiếm khoảng 30% diện tích canh tác ở châu Á (hơn 137 triệu
ha), 94% lượng nước ngọt ở Nam Á và 81% ở Đông Á Thái Bình Dương được sử
dụng cho sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là cho canh tác lúa. Hơn 2,7 tỷ người dân
phụ thuộc vào lúa như là nguồn lương thực chính yếu. Trong số này có 1,1 tỷ
người nghèo với thu nhập dưới một đô la một ngày. Những người này chi từ 20-
40% thu nhập của họ cho việc mua gạo.
Sản xuất lúa đã được tăng cường để đáp ứng các nhu cầu lương thực tăng lên
nhanh chóng do tăng dân số tại hầu hết các nước châu Á và một phần phần của
Châu Phi. Tuy nhiên, với sự biến động giá gạo trên thị trường thị trường, nhận thức
cho rằng các vấn đề khó khăn của an ninh lương thực đã được giải quyết, đặc biệt
là ở Châu Á và rằng không có còn cần một nghiên cứu cho lúa đã bị xóa bỏ.
b. Khái niệm hoạt động xuất khẩu gạo và thị trường lúa gạo quốc tế
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Xuất khẩu gạo (rice export) là hoạt động trao đổi lúa gạo và các sản phẩm chế biến
từ gạo giữa các quốc gia, mang tính chất hàng hóa, được xem xét trên góc độ của
quốc gia sản xuất và chế biến sản phẩm (lúa gạo). Nói cách khác, xuất khẩu gạo là
hoạt động thương mại nhằm cung cấp sản phẩm lúa gạo và các sản phẩm chế biến
từ lúa gạo của một quốc gia (sản xuất và chế biến lúa gạo) cho các quốc gia khác
(tiêu dùng sản phẩm lúa gạo).
Như vậy, hoạt động xuất khẩu gạo là một bộ phận không tách rời của thương mại
nông sản quốc tế. Cùng với hoạt động nhập khẩu, nó tạo ra thị trường quốc tế về
giao dịch thương mại đối với sản phẩm lúa gạo. Với đặc điểm tiêu thụ tại chỗ, lúa
gạo không phải là một thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch thương
mại quốc tế. Song đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó đa phần là các
nước có nền kinh tế nông nghiệp như các nước ở khu vực chấu Á (Thái Lan, Việt
Nam, Indonesia, Pakistan…) và châu Phi (Nigeria, Madagasca…), thương mại
xuất khẩu gạo góp phần quan trọng thu về ngoại tệ tạo lực đẩy cho sản xuất trong
nước.
c. Vị trí và vai trò của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế các nước đang phát triển và
Việt Nam
Xuất khẩu gạo được xem là hoạt động tạo ra lợi thế ban đầu cho các nước nghèo,
khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công
nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ. Đó là, so
với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí,
điện tử lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ
lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của sản phẩm lúa gạo, rất thấp, do đó thu
nhập ngoại tệ ròng của gạo xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ của Việt Nam (phân
bón, thuốc sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15 đến 20% giá
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
trị xuất khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra từ 80 đến
85% thu nhập ngoại tệ thuần cho Việt Nam, chỉ số này đối với nhân hạt điều xuất
khẩu là khoảng 27% và 73%.
Không những thế, ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo của các nước đang phát
triển và Việt Nam là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh
doanh. Đây là một đặc điểm quan trọng hiện nay của ngành này, vì các quốc gia
đang phát triển, trong đó có Việt Nam, với tỷ lệ tăng dân số cao và đặc trưng dân
số trẻ, mỗi năm phải giải quyết thêm việc làm cho hàng triệu người bước vào tuổi
lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha lúa ở đồng bằng sông Hồng mỗi năm
cần sử dụng tới 20 lao động. Hoạt động xuất khẩu gạo phát triển sẽ thúc đẩy ngành
sản xuất và chế biến lúa gạo trong nước, từ đó giải quyết được vấn đề công ăn việc
làm cho nhiều lao động, mà phần lớn là lượng lớn lao động phổ thông tại các nước
đang phát triển và Việt Nam.
Ngoài ra còn cần phải kể đến các lợi thế về điều kiện tự nhiên, về khả năng kinh
nghiệm tạo nên những lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế, từ đó góp phần
đáng kể phát triển kinh tế các quốc gia nông nghiệp. Với truyền thống hàng nghìn
năm trồng lúa nước, Việt Nam được xem như một trong những nền kinh tế lúa
nước tiêu biểu. Điều kiện tự nhiên thuận lợi (khí hậu nóng ẩm, đồng bằng châu thổ
màu mỡ…) cùng với lao động nông nghiệp (nông dân) nhiều kinh nghiệm là những
yếu tố làm giảm chi phí đầu vào, góp phần làm giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh
của gạo xuất khẩu.
Như vậy, có thể thấy hoạt động xuất khẩu gạo giữ vị trí và vai trò quan trọng trong
nền kinh tế các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng. Thứ nhất, hoạt
động xuất khẩu gạo sẽ thúc đẩy ngành sản xuất lúa gạo trong nước phát triển, giải
quyết ngay vấn đề việc làm cho người lao động tại các nước đang phát triển và
Việt Nam. Thứ hai, hoạt động xuất khẩu gạo góp phần không nhỏ trong việc góp
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
phần cải thiện cán cân thương mại, tích lũy nguồn ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu ngoại
tệ cho việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất
trong nước. Có thể nói, xuất khẩu gạo đã trực tiếp tiếp sức cho sản xuất trong nước
tăng trưởng, mở rộng quy mô sản xuất. Thứ ba, hoạt động xuất khẩu gạo được coi
là một trong những hoạt động xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế so sánh của Việt
Nam và các quốc gia có truyền thống sản xuất lúa gạo, là định hướng đúng đắn tạo
ra sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, góp phần đẩy nhanh tốc độ hội nhập của
nền kinh tế.
1.1.3 Các các yếu tố tác động đến xu hướng sản xuất và xuất khẩu gạo của các
nước đang phát triển và Việt Nam
a. Những thay đổi về thời tiết và chính sách phát triển
Chính phủ các nền kinh tế đang phát triển cũng như các cơ quan phát triển quốc tế
đều có ưu tiên rất rõ ràng đối với việc tăng sản xuất ngũ cốc (trong đó có gạo) ở
châu Á. Sự đồng thuận này càng gia tăng về cách thực hiện khi các bộ phận công
nghệ cách mạng xanh áp dụng thành công. Ở Việt Nam, ngay từ giai đoạn đầu của
quá trình Đổi mởi, Đảng và Chính phủ đã xác định sản xuất lúa gạo là hoạt động
trọng tâm của ngành nông nghiệp, không chỉ bởi vì đây là ngành sản xuất truyền
thống, chiếm ưu thế cả về diện tích và sản lượng, mà còn do lúa gạo được coi là
loại lương thực quan trọng nhất của Việt Nam. Đảm bảo sản xuất lúa gạo là đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia.
Khí hậu thế giới vài thập kỷ trở lại đây có nhiều biến động lớn. Cùng với hiện
tượng nóng lên của Trái đất, băng tan ở hai cực làm một phần không nhỏ diện tích
trồng trọt bị ngập mặn, mất khả năng sản xuất lúa gạo, những thảm họa tự nhiên
như lũ lụt, hạn hán, lốc xoáy… còn làm giảm sút sản xuất lúa gạo đe dọa dẫn đến
nạn đói ở nhiều nơi như Trung Quốc, Ấn Độ. Việt Nam cũng là một trong những
quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề từ những thay đổi thời tiết này. Hiện
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
tượng đất trồng lúa các tỉnh đồng bằng ven biển miền Bắc (Thái Bình, Thanh
Hóa…) đang bị xâm mặn hay như hiện tượng các cơn bão đổ bộ vào Trung và
Nam Trung Bộ Việt Nam có xu hướng gia tăng số lượng và cường độ đang ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam. Thêm
vào đó, cung lương thực, trong đó có lúa gạo giảm sút vào năm 2008 khiến cho giá
gạo tăng vọt, đẩy các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, trong đó có Việt Nam
phải điều chỉnh chính sách nhằm hạn chế xuất khẩu do lo lắng về an ninh lương
thực quốc gia.
b. Thay đổi công nghệ trong sản xuất lúa gạo
Cách mạng xanh trong sản xuất lúa gạo là những bước ngoặt trong việc phát triển
các giống lúa hiện đại có thân lùn trung bình. Bên cạnh đó, hai yếu tố quyết định
khác của công nghệ cách mạng xanh là phân bón và thủy lợi. Cùng với sự đóng
góp của các giống lúa mới, cũng như hai yếu tố phân bón và thủy lợi, năng suất lúa
đã tăng lên gấp nhiều lần trong suốt giai đoạn từ 1960-1990 một cách vững chắc.
Cải tiến về giống
Các giống lúa truyền thống cho sản phẩm gồm 80% thân ra và 20% bông lúa, trong
khi tỷ lệ bông lúa trên thân ra của các loại lúa hiện nay là 50/50. Các giống lúa
hiện đại có thân ngắn hơn và cứng hơn, đáp ứng nhu cầu sản lượng cao hơn với
cùng lượng phân bón mà không bị rạp vào thời điểm thu hoạch. Hơn nữa, các
giống mới trưởng thành chỉ từ 90-120 ngày, thậm chí có giống lúa từ lúc gieo cấy
đến khi thu hoạch chỉ trong vòng 60 ngày, ngắn hơn nhiều so với các giống lúa
truyền thống là 150 ngày. Các giống lúa trước đây dễ dàng bị tổn thương trước sâu
rầy và dịch bệnh đã nhanh chóng được thay thế bằng các giống kháng sâu bệnh.
Cho đến nay, rất nhiều giống lúa mới với nguồn gen phong phú được bảo vệ và
phát triển đã đang được nghiên cứu và triển khai ở hầu khắp các quốc gia sản xuất
lúa gạo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét