Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Mô hình KT thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đa dạng
hoá sở hữ tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trng đó KTNN giữ vai trò chủ đạo
2.2.Thực trạng doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Vấn đề hiệu quả của DNNN là đặc biệt quan trọng, vì đã là doanh nghiệp
kinh doanh đương nhiên phải có hiệu quả thì mới tồn tại, phát triển. Veịec xem
xét, đánh giá hiệu quả của DNNN cần có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính
trị, xã hội; trong đó, lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ
yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các
chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp
công ích.
Trên thực tế, những hoài ngi, thiếu niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng
viên vào hiệu quả của DNNN cũng không phải là không có căn cứ nhất định. Thực
tế cho thấy, các DNNN của chúng ta bên cạnh những thành tựu to lớn đã và đang
bộc lộ những yếu kém khá nghiêm trọng.
Quy mô các DNNN còn nỏ (vốn bình quân chỉ là 12 tỉ đồng), cơ cấu có
nihều bất hợp lý, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, chưa thật sự tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong sản xuất thấy ngoài một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ
hiện đại hoặc trung bình của thế giới từ 10 đến 20 năm, thậm cí 30 năm. Đến
tháng 5/2001 mới chỉ có 4,1% tổng số DNNN được chứng nhận đạt tiêu chuẩn
chất lượng quốc tế. Kết quả sản xuất kinh doanh của các DNNN cũng chưa tương
xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước: Trong 4 năm
(1997 -2000) ngân sách nhà nước đã đầu tư thêm cho DNNN gần 82000 tỉ đồng;
ngoài ra, miễn giảm thuế 1351 tỉ đồng, xoá nợ 1.088 tỉ đồng, khoang nợ 3392 tỉ
đồng, giãn nợ 540 tỉ đồng, giảm tính khấu hao 200 tỉ đồng và cho vay ưu đãi đầu
tư 9000 tỉ đồng. Đến năm 2000, số DNNN kinh doanh có hiệu quả mới chỉ là
40%, bị lỗ liên tục chiếm tới 29%.
Tình hình đúng như vậy, nhưng từ đó để đi đến khẳng định chỉ có các
DNTN mới có lãi và DNNN chỉ có thua lỗ, kém hiệu quả là hoàn toàn không
đúng. Nhận định này thiếu cả cơ sở lý luận và thực tiễn, coi một số hiện tượng
trùng với bản chất, bởi nếu đi sâu nghiên cứu chúng ta cũng dễ thấy không chỉ
DNNN mới thua lỗ, mà cũng có nhiều DNTN thua lỗ. Khủng hoảng kinh tế - tài
chính khu vực với những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội có thể được
coi là khủng hoảng của kinh tế tư nhân. Thực tế ở thành phố Hải Phòng (cũng như
ở nhiều địa phương khác) cho thấy, tỷ lệ nợ quá hạn của các khoản vay tín dụng
ngân hàng của DNTN (vào khoảng 36% tính đến tháng 6/2001), cao gấp đôi so
với DNNN, trong đó phần lớn là nợ khó có khả năng thanh toán. Trong tổng số
DNNN có tới 70% là hoạt động có lãi và khi lãi khi lỗ; số DNNN thua lỗ tuy còn
nhiều song chỉ là thiểu số.
Như vậy, thua lỗ, hiệu quả thấp là đồng hành của cả DNNN và DNTN,
không có sự phân biệt chủ sở hữu. Thực tế ở nước ta cho thấy, sự thua lỗ hiệu quả
kinh tế thấp của một bộ phận đáng kể DNNN và DNTN có nhiều nguyên nhân
không có liên quan đến sở hữu doanh nghiệp, trong đó có nguyên nhân rất cơ bản
là điều kiện sản xuất kinh doanh cua nước ta nhiều khó khăn, biến động rủi ro lớn,
các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế yếu kém, nhất là về trình độ quản lý, kinh
nghiệm thương trườn
II. VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC.
Đánh giá thành tựu 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội (1991 - 2000), Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX đã nhận định rằng một
trong những chuyển biến quan trọng nhất của nền kinh tế trong những năm vừa
qua là : " Từ chỗ chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập
thể đã chuyển sang có nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo ". ở một đoạn khác về đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Báo
cáo Chính trị lại khẳng định quyết tâm của Đảng ta : " Thực hiện nhất quán chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần" và nói rõ thêm : " Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài , hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà
nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân".
Những điều trên thực sự chứa đựng nhiều cái mới được tổng kết từ thực tiễn
đòi hỏi phải có một sự nghiên cứu công phu mới thực sự nắm bắt được. Phần này
làm rõ ba vấn đề sau:
Một là, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phát triển ở nước ta hiện nay.
Hai là, tính tất yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Ba là, vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước biểu hiện như thế nào.
1. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phát triển ở nước ta hiện nay.
Ta đã biết cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta nêu lên sáu đặc trưng cơ bản của
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, trong đó có đặc trưng về nền kinh tế
dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu. Chế độ công hữu
hay chế độ công cộng bao gồm cả sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưi thế tuyệt
đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Đó là chuyện lâu dài, còn
chuyện trướn mắt chúng ta vẫn đang là thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ là một thời
kỳ không ngắn cho nên phát triển nền kinh tế nhiều thành phần cũng là một tất yếu
khách quan nhằm khai thác tối đa mọi năng lực sản xuất trong xã hội để phát triển
lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần của nhân dân.
Trước đây, do duy ý chí, chủ quan và nóng vội đã có ý nghĩ rằng có thể xây
dựng nhanh xã hội chủ nghĩa thông qua các biện pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa ,
xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân được coi là " phi chủ nghĩa xã hội". Sự thực
không phải như vậy, thực tiễn 10 năm đổi mới cho thấy rằng đi lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền kinh tế còn nghèo nàn, chậm phát triển trước hết phải lấy việc phát
triển lực lượng sản xuất làm ưu tiên. Còn việc xây dựng quan hệ sản suất mới đặc
biệt là xây dựng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu là một quá
trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến
cao. Theo tinh thần đó, Báo cáo Chính trị chỉ rõ : " Tiêu chuẩn căn bản để đnáh
giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc
đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công
bằng xã hội". Làm khác đi là có hại cho sự phát triển.
Về cơ cấu ngành:
Từ các hình thức sở hữu cơ bản : "Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức sử hữu kinh
doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp". Các thành phần kinh tế được nêu lên gồm :
kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản Nhà nước. Thành phần kinh tế hợp tác đã được thay bằng thành
phần kinh tế tập thể nói rõ hơn về bản chất của sở hữu. Và thành phần này vẫn
được hiểu là bao gồm nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là
nòng cốt. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Thành phần này xuất hiện và ngày càng lớn lên trong những
năm gần đây, bao gồm vốn do nước ngoài đầu tư vào nước ta, hoặc 100% hoặc
trong các hình thức liên doanh, liên kết.
Nhìn chung kinh tế Việt Nam có những chuyển biến tích cực, tỉ lệ ngành công
nghiệp và dich vụ trong GDP có xu hướng tăng và tỉ lệ ngành nông nghiệp có xu
hướng giảm. Tuy nhiên cốt lõi vẫn là công - nông - dịch vụ.
Về kinh tế đối ngoại:
Nước ta đã mở cửa nền kinh tế liên kết với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới
với xu hướng ngày càng mạnh mẽ. Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển khá. Năn
2000, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 186 USD/người, tuy còn ở mức thấp,
nhưng đã thuộc loại các nước có nền ngoại thương phát triển. Tuy nhiên, tỷ trọng
kim ngạch xuất nhập khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản còn chiếm 30%.
Các mặt hàng xuất khẩu ở nước ta vẫn ở dạng thô, giá trị thấp, sức cạnh tranh
kém. Hơn nữa các doanh nghiệp xuất khẩu chưa làm tốt công tác xúc tiến thương
mại, chưa có chiến lược xuất khẩu dài hạn ổn định lâu dài, thương mại điện tử vẫn
còn mới mẻ. Như vậy, hiện tại khả năng tham gia hội nhập kinh tế thế giới của các
doanh nghiệp nước ta còn thấp, đòi hỏi Nhà nước cũng như mỗi doanh nghiệp
phải có giải pháp trong quá trình hội nhập thu được nhiều hiệu quả.
2. Tính tất yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng phổ biến của mọi nền kinh tế
thị trường. Khác nhau là ở chỗ trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, kinh tế tư
nhân nói đúng hơn là kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị; còn trong kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, như ở nước ta, thì kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, và kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và
phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Do có sự nhầm lẫn giữa Nhà nước và kinh tế Nhà nước nên có ý kiến cho rằng
chỉ có Nhà nước mới làm chức năng chủ đạo, chứ kinh tế Nhà nước thì không thể
giữ vai trò chủ đạo được. Cũng do có sự đồng nhất giữa doanh nghiệp Nhà nước
và kinh tế Nhà nước nói chung, nên ý kiến khác cho rằng doanh nghiệp Nhà nước
không thể giữ vai trò chủ đạo được bởi nó có hàng loạt những khuyết điểm và
nhược điểm trong hoạt động. Thật ra, doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận trụ cột
nhất của kinh tế Nhà nước chứ không phải là toàn bộ kinh tế Nhà nước. Nói đến
kinh tế Nhà nước thì phải nói đến tất cả các sở hữu trong tay Nhà nước, kể cả tài
nguyên, đất đai, ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia Kinh tế Nhà nước không
làm chức năng quản lý của Nhà nước nhưng chính nó là công cụ quan trọng, là
sức mạnh kinh tế mà Nhà nước nắm lấy và đưa vào để làm chức năng quản lý của
mình. Báo cáo Chính trị viết: " Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, doanhnghiệp Nhà nước giữ vị trí then chốt,
đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất
lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trình độ lực lượng sản xuất
còn thấp, quan hệ sở hữu còn tồn tại nhiều hình thức, là nền kinh tế hỗn hợp nhiều
thành phần nhưng cơ chế thị trường chưa hoàn hảo, doanh nghiệp Nhà nước hạot
động còn nhiều khuyết tật. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với
doanh nghiệp Nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
theo định hướng : xoá bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường,
tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi, thực hiện tốt
quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát,
thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp, kinh tế Nhà nước có giữ được vai
trò chủ đạo thì mới có thể đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế
thị trường. Do đó phải có sự quản lý của Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, do đó đầu tư
phát triển kinh tế Nhà nước là tạo ra nền tảng kinh tế cho xã hội chủ nghĩa, tạo ra
sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết và quản lý thị trường.
Kinh tế Nhà nước các vị trí then chốt nên có khả năng chi phối các thành phần
kinh tế khác.
3. Những biểu hiện củavai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
3.1 Làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và
quản lý vĩ mô.
Nhà nước sử dụng chung tất cả các biện pháp có thể can thiệp vào kinh tế
nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh
lành mạnh, phân bổ nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã
hội một cách hài hoà phù hợp với giá trị truyền thống và văn hoá đất nước.
Trong kinh tế, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể kinh tế, trực tiếp đối mặt
với thị trường để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản : sản xuất cái gì? sản xuất
như thế nào? sản xuất cho ai? theo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Điều này tất yếu
dẫn đến kết cục là ở đâu, khi nào, đối với mặt hàng nào có thể đem lại lợi nhuận
cao thì ở đó, khi đó các doanh nghiệp có khả năng sẽ đổ xô vào sản xuất và kinh
doanh mặt hàng đó. Ngược lại, nếu ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng nào không
có lãi hoặc lỗ vốn thì ở đó, khi đó sẽ có nhiều doanhngiệp có khả năng sẽ rút khỏi
thị trường sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Do sự hạn chế của mỗi dịch vụ về
việc thu thập cũng như xử lý các thông tin cần thiết về thị trường để quyết định có
tham gia hay rút khỏi một thị trường nào đó, tất cả sẽ dẫn đến nguy cơ có thể phát
sinh mâu thuẫn giữa cung và cầu ở mọi lúc, mọi nơi và đối với mọi mặt hàng. Để
chống lại nguy cơ đó Nhà nước phải thực hiện chức năng điếu tiết bằng nhiều
công cụ khác nhau. Trong đó doanh nghiệp Nhà nước được coi là một công cụ.
Với tư cách là công cụ điều tiết luôn được Nhà nước thực hiện theo phương
châm : ở đau, khi nào nền kinh tế quốc dân đang mở rộng sản xuất kinh doanh một
mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không có đủ sức
kinh doanh hoặc từ chối thì ở đó và khi đó cần sự có mặt của doanh nghiệp
Nhànước. Đến lúc nào đó, khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng nhu
cầu thị trường, doanh nghiệp Nhà nước có thể rút khỏi thị trường đó, nhường chỗ
cho các doanh nghiệp dân doanh. Quá trình diễn ra liên tục, lặp lại ở mọi lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân hình thành vai trò điều tiết của doanh nghiệp Nhà nước.
Chức năng này còn thể hiện ở trong phạm vi từng vùng đặc biệt quan trọng với
các vùng xa, vùng sâu.
Như vậy, chức năng điều tiết nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước phải sử
dụng doanh nghiệp Nhà nước như một công cụ cần thiết bảo đảm cho nền kinh tế
hoạt động một cách thông suốt, đảm bảo lợi ích xã hội.
3.2 Làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội.
Để nền kinh tế nước ta phát triển một cách nhanh chóng thì cần phải có những
bước tăng trưởng. Do vậy, cần có một lực lượng có sức mạnh kinh tế làm đòn bẩy
để thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển.Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
chưa đủ khả năng chi phối toàn bộ nền kinh tế nhưng có một thực lực to lớn nên
chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mới có thể thực hiện được chức năng đòn bẩy.
Những vấn đề xã hội đang là một hạn chế lớn của nước ta. Muốn phát triển
kinh tế - xã hội Nhà nước phải giải quyết triệt để những vấn đề đó. Để thực hiện
được điều này chúng ta cần có thực lực về kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế
nhiều thành phần như hiện nay thì chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước mới có thể
đảm nhận được vai trò làm lực lượng chủ lực cho Nhà nước giải quyết các vấn đề
xã hội.
3.3 Mở đường hướng dẫn, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển; Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
KTNN kiểm soát các thị trường của hoạt động vốn và thị trường tiền tệ để bảo
đảm khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài chính tiền tệ,
tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Thành phần kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo chi phối các thành phần
kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình, tạo
cơ sở hạ tầng cho mỗi kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành then chốt và trọng
yếu xã hội, làm đòn bảy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội.
Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội.

III. Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam
Nhiệm vụ hiện nay là xác định nội dung định hướng XHCN
Đó là thể chế kinh tế mà trong đó thị trường và quan hệ thị trường ngày càng
được xxác lập là vai trò quyết định đối với sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế có
nhiều thành phần cạnh tranh, có trình độ xã hội cao, thúc đẩy sự kết hợp hài hoà
giữa sản xuất và tiêu dùng. Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và
chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách điều
tiết, phân phối đảm bảo phúc lợi cho toàn dân thực hiện công bằng xã hội.
1. Nền kinh tế nước ta là nên kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh
tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn
dân, sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành
nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Do đó
không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế đọ công hữu, mà còn
phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình
thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ
công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa
trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành
phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường bình đẳng.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thanh phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. “Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực
lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế –
xã hội và chấp hành pháp luật”. Việc xác lập vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà
nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét